Trong di truyền học quần thể, cố định gen là hiện tượng trong đó một alen của một gen lấn át tất cả alen khác và đạt tần số 100%. Nói cách khác, đó là hiện tượng khi số lượng alen của một gen giảm còn chỉ một alen. Trong điều kiện không có đột biến hay ưu thế lai, bất cứ alen nào rồi cũng sẽ được cố định (vĩnh viễn đạt tần số 100%) hoặc biến mất hoàn toàn.
Chuyện alen sẽ mất hay được cố định phụ thuộc vào hệ số chọn lọc của bản thân alen và các yếu tố ngẫu nhiên khác (bao gồm phiêu bạt di truyền). Cố định gen có thể dùng để nói về một gen hoặc một lô-cut gen vị trí (nucleotide cụ thể trong chuỗi DNA).
Trong quá trình thế gen (một phân loại của cố định gen), đột biến tạo ra một gen mới. Gen mới đó nhờ phiêu bạt hoặc chọn lọc dương mà đạt tần số 100% (trở thành alen duy nhất còn lại trong quần thể). Ta nói: gen đó đã được cố định.
Tương tự, những đặc trưng di truyền của các phân loại sinh vật khác nhau được coi là đã được cố định vào mỗi loài. Ví dụ: vì tất cả thực vật đều có lục lạp, ta nói lục lạp là một tính trạng đã được cố định vào hệ gen của thực vật.
Lịch sử
Cố định gen được nhắc đến lần đầu tiên trong nghiên cứu năm 1962 của Kimura "Về Xác suất Cố định của Gen Đột biến trong Quần thể". Trong đó, Kimura đã dùng phương pháp toán học để xác định xác suất cố định của gen đột biến trong quần thể. Ông ấy đã chỉ ra rằng xác suất cố định phụ thuộc vào tần số alen ban đầu và trung bình cũng như độ dao động của tần số alen qua mỗi thế hệ.
Xác suất
Trong trường hợp chỉ xảy ra phiêu bạt di truyền, tất cả tập hợp hữu hạn của gen hoặc alen đều có một "điểm hội tụ", nơi mà tất cả hậu duệ được phân kì từ một tổ tiên chung. Điều này có thể được sử dụng để xác định tốc độ cố định gen của một alen trung tính (alen không chịu tác động của chọn lọc tự nhiên) trong một quần thể có kích thước biến động (nhưng hữu hạn và khác không). Vì không có chọn lọc tự nhiên, xác suất alen sẽ được cố định vào bất cứ thời điểm nào sẽ bằng tần số alen của nó vào thời điểm đó.
Ví dụ, nếu một quần thể chứa alen A (20%) và a (80%), 80% sẽ là xác suất alen a được cố định vào locut sau vô số thế hệ (cho rằng phiêu bạt di truyền là nhân tố tiến hoá duy nhất).
Cho một quần thể lưỡng bội có kích thước và tốc độ đột biến trung tính , tần số xuất hiện ban đầu của một đột biến mới là 1/(2N), và số lượng đột biến mới sau mỗi thế hệ là. . Vì tốc độ cố định là tốc độ đột biến trung tính mới nhân với xác suất cố định của quần thể, tốc độ cố định chung là . Do đó, tốc độ cố định cho một đột biến không phụ thuộc vào chọn lọc chỉ là tốc độ xuất hiện của đột biến đó.
Cho các quần thể có kích thước không đổi, xác suất cố định của alen mới với ưu thế chọn lọc s có thể được ước lượng sử dụng thuyết về quá trình rẽ nhánh. Một quần thể có các thể hệ không chờm lấp nhau n = 0, 1, 2, 3,... và với có số gen (hoặc số cá thể) khi n tạo thành một chuỗi Markov với những giả định sau. Sự xuất hiện của một cá thể sở hữu alen có ưu thế chọn lọc tương ứng với . Số lượng con của một cá thể bất kỳ phải được xác định một cách độc lập và tuân theo một sự phân bố cố định. Dưới các điều kiện này, hàm cho mỗi thoả mãn mối quan hệ đệ qui và có thể được dùng để tính xác suất của không có đời sau vào thế hệ n. Có thể chứng mình và cả cùng đỏ về một giá trị là xác suất cá thể không có con. Xác suất cố định lúc đó sẽ là vì lợi thế sinh tồn sẽ giúp gen tăng tần số cho đến khi áp lực chọn lọc dẫn đến cố định gen.
Những đột biến có hại vẫn có thể tình cờ được cố định trong các quần thể nhỏ, khi đó xác suất cố định sẽ phụ thuộc vào độ phiêu bạt (~) và hệ số chọn lọc (~), trong đó là kích thước quần thể hữu hiệu. Tỉ số sẽ quyết định cái nào chiếm ưu thế, chọn lọc hay phiêu bạt. Nếu tỉ số này không quá âm thì alen gây hại vẫn có cơ hội được cố định.
Ví dụ: Trong một quần thể lưỡng bội kích thước và một alen gây hại có hệ số chọn lọc , xác suất cố định của alen đó sẽ bằng . Cách phỏng tính này đến từ nghiên cứu của Kimura năm 1962. Một gen gây hại với hệ số chọn lọc sao cho sẽ coi như trung tính, và vì thế có xác suất cố định khoảng .
Xác suất cố định cũng phụ thuộc vào sự thay đổi kích thước quần thể. Cho những quần thể đang tăng, ảnh hưởng của chọn lọc sẽ mạnh hơn nên những alen có lợi sẽ dễ được cố định hơn, trong khi alen có hại sẽ dễ biến mất. Còn trong những quần thể đang giảm, ảnh hưởng của chọn lọc không mạnh bằng, nên khả năng alen có lợi biến mất, alen có hại được cố định cũng cao hơn. Đây là vì đột biến mới có lợi hiếm sẵn nên nó có thể vì ngẫu nhiên mà biến mất (khi các cá thể mang gen không có con).
Ở các quần thể đang tăng, số con trung bình của mỗi cá thể cao hơn quần thể đang giảm; cho nên dễ truyền lại alen có lợi cho đời sau. Quá trình này cứ lặp lại cho đến khi alen có lợi phát tán khắp quần thể, rồi cuối cùng được cố định. Còn ở quần thể đang giảm, alen có thể không được truyền lại vì cá thể mang gen không có con, thậm chí dẫn tới đột biến có lợi biến mất.
Thời gian
Người ta đã nghiên cứu cách xác định thời gian cố định trung bình của một đột biến trung tính. Kimura và Ohta (1969) đã chỉ ra rằng một đột biến mới sẽ được cố định sau thế hệ đa hình (phân tính).
Ta cũng có thể lập mô hình để xác định tốc độ cố định của một gen trong điều kiện kích thước biến động. Ví dụ: ở trang [http://www.biology.arizona.edu/evolution/act/drift/about.html The Biology Project Genetic Drift Simulation], ta có thể tạo mô hình phiêu bạt di truyền để thấy tốc độ gen qui định màu giun được cố định trong các kích thước quần thể khác nhau.
Thêm vào đó, tốc độ cố định cũng có thể được cố đinh sử dụng cây hội tụ. Một cây hội tụ lần theo dòng dõi của một gen trong quần thể nhằm tra ra một bản sao đầu tiên của gen đó, gọi là tổ tiên chung gần nhất.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Trong di truyền học quần thể, **cố định gen** là hiện tượng trong đó một alen của một gen lấn át tất cả alen khác và đạt tần số 100%. Nói cách khác, đó là
**Di truyền học bảo tồn** (_Conservation genetics_) là một lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu mang tính liên ngành của di truyền học quần thể nhằm mục đích tìm hiểu cơ chế, động lực học
**Phiêu bạt di truyền**, còn gọi là **trôi dạt alen** hoặc **hiệu ứng Sewall Wright**, là sự thay đổi tần số của một biến thể gen hiện tại (alen) trong quần thể do lấy mẫu
Di truyền học, khoa học nghiên cứu về gene, tính trạng và biến dị của cơ thể sống. Di truyền học đề cập đến cấu trúc và chức năng của gen, và hành vi của
**Biến dị di truyền** là sự khác nhau về ADN giữa các cá thể hoặc quần thể. Đột biến là nguyên nhân sâu xa nhất của biến dị di truyền, nhưng các cơ chế khác,
nhỏ|Tổng số chim cánh cụt ở một khu vực là kích thước của quần thể này. **Kích thước quần thể** là tổng số các cá thể cùng loài hiện có trong một quần thể. Ví
nhỏ|Các gen cùng ở một nhiễm sắc thể gọi là gen liên kết. Trong sơ đồ có hai nhóm gen liên kết: AbCDe và aBCde. **Gen liên kết** (linkage genes) là các gen cùng ở
nhỏ|Hình 1: W. Sutton (trái) và T. Boveri (phải) cùng sáng lập thuyết di truyền nhiễm sắc thể. **Học thuyết di truyền nhiễm sắc thể** là lí thuyết Sinh học cho rằng nhiễm sắc thể
**_Di truyền học và nguồn gốc các Loài_** là cuốn sách được xuất bản năm 1937 bởi Theodosius Dobzhansky, một nhà sinh học tiến hóa người Mỹ gốc Ukaraina. Nó được coi là một trong
nhỏ|Vốn gen của một quần thể là tập hợp tất cả các alen ở quần thể đó. Trong di truyền học quần thể, **vốn gen** (tiếng Anh: gene pool, IPA: /ʤiːn puːl/) là tập hợp
nhỏ|Hình 1: Phát tán cá thể thông qua di cư hoặc nhập cư là hiện tượng dòng gen thường gặp. **Dòng gen** là sự di chuyển cá thể hoặc giao tử từ quần thể này
thumb|Cơ chế di truyền học biểu sinh **Di truyền học biểu sinh**, còn có tên gọi là **ngoại di truyền học** là một ngành sinh học, trong đó đề cập đến các câu hỏi về
nhỏ|F1 có kiểu gen như nhau, nhưng độ biểu hiện màu khác nhau. **Độ hiện của gen** là mức độ biểu hiện ra kiểu hình của một gen xác định, khi gen đó đã thấm
nhỏ|Đường cong phân bố các kiểu gen trong trường hợp hai alen cùng [[lô-cut gen|locus gen với tần số p (của A) và q (của a) theo phương trình = (p + q)2.]] **Phương trình
thumb|Cổ chai di truyền, tiếp sau là khôi phục dân số hoặc [[tuyệt chủng.]] **Thắt cổ chai quần thể** (đôi khi gọi là thắt cổ chai di truyền) là thuật ngữ dịch từ tiếng Anh
nhỏ|Một khâu trong quá trình xét nghiệm di truyền ở phòng thí nghiệm. **Xét nghiệm di truyền** là một loại xét nghiệm y học dùng để xác định những biến đổi trong vật chất di
**Thuyết ngoại di truyền về đồng tính** là các nghiên cứu về những thay đổi trong biểu hiện gen hoặc kiểu hình tế bào gây ra bởi các cơ chế khác ngoài những thay đổi
nhỏ|Sự di truyền tính trạng hình thái lá ở loài hoa phấn được xem là một ví dụ điển hình cho sự di truyền ngoài nhân **Di truyền ngoài nhân** (tiếng Anh: _Extranuclear inheritance_) hay
nhỏ|Bố và con trai có đôi tai rất giống nhau. **Di truyền** là hiện tượng truyền đạt các tính trạng của (bố mẹ, tổ tiên) cho các thế hệ (con, cháu). Chẳng hạn người bố
thumb|Bản đồ các dòng di cư sớm thời tiền sử theo [[DNA ty thể. Các con số thể hiện là Ka BP.]] **Các dòng di cư sớm thời tiền sử** bắt đầu khi Người đứng
**Di truyền gen lặn liên kết X** là phương thức kế thừa gen lặn có lô-cut tại vùng không tương đồng của nhiễm sắc thể giới tính X cho đời sau. Đây là thuật ngữ
Trong sinh học, **lai giống** (hybrid) là sự kết hợp các phẩm chất của hai sinh vật thuộc hai giống, hoặc loài, chi thực vật hoặc động vật khác nhau, thông qua sinh sản hữu
nhỏ|Gregor Mendel - người sáng lập "di truyền học Mendel" **Di truyền Mendel** là nền tảng của di truyền học, gồm các tư tưởng của Grêgo Menđen chỉ ra xu hướng sự kế thừa sinh
thumb|Gen trội trên nhiễm sắc thể thường và gen lặn trên nhiễm sắc thể thường, hai kiểu di truyền Mendel phổ biến nhất. Nhiễm sắc thể thường là bất kỳ nhiễm sắc thể nào khác
nhỏ|Màu mắt trắng chỉ xuất hiện ở ruồi đực (thí nghiệm của Morgan, 1910). **Di truyền liên kết giới tính** là quá trình di truyền tính trạng biểu hiện cùng với giới tính (tính đực
nhỏ|Mô hình Hardy-Weinberg về ngẫu phối ở trường hợp 3 alen (sơ đồ trái) và 4 alen (phải). Trong di truyền học quần thể, **ngẫu phối** là quá trình giao phối ở quần thể diễn
Trong di truyền học quần thể, **hệ số chọn lọc** thường được biểu thị bằng chữ s, là thước đo sự khác biệt về thể lực tương đối. Các hệ số chọn lọc là trung
**Mô hình chọn lọc chung** (GSM) là một mô hình di truyền học quần thể mô tả tần số alen của quần thể sẽ thay đổi như thế nào khi bị chọn lọc tự nhiên
Trong di truyền học quần thể, **trạng thái mất cân bằng liên kết** () (**LD**) là sự liên kết không ngẫu nhiên của các alen ở các locus khác nhau trong một quần thể nhất
nhỏ|Phôi người giai đoạn sớm nhất : 2 - 4 phôi bào. **Chẩn đoán di truyền phôi trước làm tổ** là phương pháp xác định cấu hình di truyền của phôi mới hình thành và
nhỏ|Hình 1: Một đàn voi hoang dã là hình ảnh của một quần thể. nhỏ|Hình 2: Các đặc điểm chính của một quần thể sinh vật. Trong sinh học, một **quần thể** là tập hợp
nhỏ|Một dãy các codon nằm trong một phần của phân tử [[RNA thông tin (mRNA). Mỗi codon chứa ba nucleotide, thường tương ứng với một amino acid duy nhất. Các nucleotide được viết tắt bằng
nhỏ|Tóm tắt thí nghiệm "1 gen - 1 enzym" của [[George Wells Beadle|George Beadle và Edward Tatum.]] **Giả thuyết một gen - một enzym** là một lý thuyết của di truyền học cho rằng: trong
Trong trí tuệ nhân tạo, **lập trình di truyền** (_genetic programming, GP_) là một kỹ thuật tiến hóa các chương trình mà ban đầu chưa thích nghi (thường là chương trình ngẫu nhiên) cho đến
thumb|right|Một mẫu [[nấm thu thập được vào mùa hè năm 2008 tại các khu rừng hỗn hợp nằm ở miền Bắc Saskatchewan, gần thị trấn LaRonge, Canada. Đây là ví dụ chứng minh tính đa
nhỏ|Hình 1: Lược đồ tạo thành nhiễm sắc thể Philadelphia **Nhiễm sắc thể Philadelphia** là nhiễm sắc thể số 22 của người bị đột biến thêm một đoạn từ nhiễm sắc thể số 9 chuyển
**Dòng nội phối** (_Inbred strains_-_Inbred lines_) hay còn gọi là **nòi nội phố**, hay **dòng lai đồng chủng**, hoặc **dòng lai cận huyết/cùng máu** (_linear animals_) là các cá thể của một loài cụ thể
nhỏ|Biểu tượng của tiến hóa **Thuyết tiến hoá trung tính** là lý thuyết sinh học cho rằng ở cấp độ phân tử, thì quá trình tiến hoá diễn ra bằng cách củng cố ngẫu nhiên
**Lịch sử di truyền các dân tộc bản địa châu Mỹ** được chia thành hai giai đoạn chính: đầu tiên là làn sóng thiên di vào châu Mỹ của người cổ đại tầm 20.000-14.000 năm
**Hội chứng đực giống** (_Sire syndrome_) hay còn gọi là **hiệu ứng đực giống nhân rộng** (_Popular sire effect_) là hiện tượng tâm lý, xu hướng, trào lưu, khuynh hướng diễn ra trong việc lai
nhỏ|Mô hình cấu trúc lý thuyết của bộ ba mã di truyền, theo đó mỗi [[nucleotide (A, T, G hay C) ở không gian 3D có thể kết hợp có lặp với mỗi nuclêôtit khác,
thumb|right|Ảnh chụp hiển vi điện tử của hai ty thể trong tế bào mô phổi động vật có vú cho thấy chất nền và những lớp màng bao bọc bào quan. **Ty thể** (tiếng Anh:
**Sinh vật biến đổi gen** (tiếng Anh: _Genetically Modified Organism_, viết tắt **GMO**) là một sinh vật mà vật liệu di truyền của nó đã bị biến đổi theo ý muốn chủ quan của con
thumb|right|348x348px|Bìa của bài thơ có chủ đề tiến hóa của [[Erasmus Darwin, _Temple of Nature_ cho thấy một nữ thần vén bức màn bí ẩn của thiên nhiên (bên trong là Artemis). Tượng trưng và
nhỏ|Đoạn DNA có thể bị "cắt" rồi chuyển vị trí, làm một gen hoặc cụm gen ở đó "nhảy" rồi chèn sang chỗ khác. **Gen nhảy** là một đoạn DNA hoặc bản sao của nó
thumb|
Logo của Dự án [[Quá trình tự nhân đôi DNA.]] **Dự án Bản đồ gen Người** (tiếng Anh: _Human Genome Project_ - HGP) là một dự án nghiên cứu khoa học quốc tế có mục**Hệ gen học** là một lĩnh vực khoa học liên ngành nghiên cứu về tất cả các gen thuộc bộ gen của cơ thể sinh vật, trong mối quan hệ của các gen này cũng
nhỏ|Hình 1: Mô tả chung bảng Punnett. **Bảng Punnett** (phiên âm quốc tế: /ˈpʌnɪt/, phiên âm Việt: _Păn-nit_) là bảng trình bày kết quả lai trong nghiên cứu Di truyền học cổ điển. Bảng được
nhỏ|P có gen C trội hoàn toàn, sinh F1 có kiểu gen như nhau (Cc), nhưng chỉ 80% biểu hiện màu, thì độ thấm C = 0,8. **Độ thấm của gen** là tỷ lệ số
nhỏ|Hình 1: Tỉ lệ 9 tím: 7 trắng không theo quy luật Mendel. **Tương tác gen** là sự tác động tương hỗ giữa nhiều gen không alen với nhau - còn gọi là tác động