✨Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát

Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát

Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát còn được gọi là Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (tiếng Anh: Universal Periodic Review), viết tắt là UPR, là một cơ chế của Hội đồng Nhân quyền (HRC) Liên Hợp Quốc (UN) xuất hiện từ quá trình cải cách năm 2005 của Liên Hợp Quốc. Thường được gọi là UN-UPR, cơ chế này được thành lập theo [http://www2.ohchr.org/english/bodies/hrcouncil/docs/A.RES.60.251_En.pdf nghị quyết] Đại hội đồng [http://www2.ohchr.org/english/bodies/hrcouncil/docs/A.RES.60.251_En.pdf 60/251] ngày 3 tháng 4 năm 2006. UPR định kỳ kiểm tra hoạt động nhân quyền của tất cả 193 quốc gia thành viên LHQ. Cơ chế này nhằm bổ sung, không trùng lặp với hoạt động của các cơ chế nhân quyền khác, bao gồm cả các cơ quan điều ước nhân quyền của Liên Hợp Quốc. Đây là cơ chế nhân quyền quốc tế đầu tiên giải quyết vấn đề nhân quyền ở tất cả các quốc gia và tất cả các quyền con người. Nhóm làm việc về UPR, bao gồm 47 quốc gia thành viên của HRC và do Chủ tịch HRC chủ trì, tiến hành việc rà soát một quốc gia.

Nguyên tắc và mục tiêu

[http://ap.ohchr.org/documents/E/HRC/resolutions/A_HRC_RES_5_1.doc Nghị quyết] [http://ap.ohchr.org/documents/E/HRC/resolutions/A_HRC_RES_5_1.doc 5/1] ngày 18 tháng 6 năm 2007 và [http://ap.ohchr.org/documents/E/HRC/decisions/A_HRC_DEC_6_102.pdf quyết định] [http://ap.ohchr.org/documents/E/HRC/decisions/A_HRC_DEC_6_102.pdf 6/102] ngày 27 tháng 9 năm 2007 của Hội đồng Nhân quyền xác định các chức năng của UPR trong chu kỳ đầu tiên từ 2008 - 2012. Trong chu kỳ thứ hai và sau đó, một vài sửa đổi được đưa ra theo [http://ap.ohchr.org/documents/dpage_e.aspx?si=A/HRC/RES/16/21 Nghị quyết 16/21] ngày 12 tháng 4 năm 2011 và [https://web.archive.org/web/20111114172632/http://www2.ohchr.org/english/bodies/hrcouncil/17session/docs/A-HRC-DEC-17-119.pdf quyết định 17/119] ngày 19 tháng 7 năm 2011 của Hội đồng Nhân quyền, sau khi HRC xem xét (để biết thêm chi tiết, xem quy trình đánh giá của HRC bên dưới). Nghị quyết 5/1 của HRC quy định rằng UPR phải:

  • Thúc đẩy tính phổ quát, phụ thuộc lẫn nhau, không thể chia cắt và liên quan đến nhau của tất cả các quyền con người
  • Là một cơ chế hợp tác dựa trên thông tin khách quan và đáng tin cậy và đối thoại tương tác
  • Đảm bảo mức độ phổ quát (áp dụng với tất cả các quốc gia) và đối xử bình đẳng với tất cả các quốc gia
  • Là một quá trình liên chính phủ, được các thành viên LHQ dẫn dắt, và hướng đến hành động
  • Có sự tham gia đầy đủ của quốc gia được rà soát
  • Bổ sung và không trùng lặp các cơ chế nhân quyền khác, do đó thể hiện một giá trị mới
  • Được tiến hành một cách khách quan, minh bạch, có tính xây dựng, không mang tính chọn lọc, không đối đầu và không chính trị hóa.
  • Không quá nặng nề với Nhà nước liên quan hoặc chương trình nghị sự của HRC
  • Không được quá dài; nó phải thực tế và không tốn một lượng thời gian không tương xứng hoặc nguồn nhân lực và tài chính
  • Không làm giảm năng lực của HRC để đối phó với các tình huống nhân quyền cấp bách
  • Tích hợp đầy đủ quan điểm về giới
  • Tính đến mức độ phát triển và đặc thù của các quốc gia
  • Đảm bảo sự tham gia của tất cả các bên liên quan, bao gồm các tổ chức phi chính phủ (NGO) và các cơ quan nhân quyền quốc gia (NHRI).

Mục tiêu của UPR là:

  • Cải thiện tình hình nhân quyền trên thực tế
  • Hướng đến việc thực hiện các nghĩa vụ và cam kết nhân quyền của Nhà nước và đánh giá các phát triển tích cực cũng như thách thức mà Nhà nước phải đối mặt
  • Nâng cao năng lực của Nhà nước và hỗ trợ kỹ thuật, có tham vấn và với sự đồng ý của Nhà nước liên quan
  • Việc chia sẻ thực tiễn tốt nhất giữa các quốc gia và các bên liên quan khác
  • Hỗ trợ hợp tác trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người
  • Khuyến khích hợp tác và tham gia đầy đủ với HRC, các cơ quan nhân quyền khác và Văn phòng Cao ủy Nhân quyền LHQ (OHCHR).

Nghị quyết 16/21 của HRC quy định thêm rằng các chu kỳ thứ hai và tiếp theo nên tập trung vào việc thực hiện các khuyến nghị được chấp nhận và những diễn biến của tình hình nhân quyền tại quốc gia được rà soát.

Thủ tục

Chu kỳ UPR

Chu kỳ UPR đầu tiên được thực hiện trong vòng 4 năm, chu kỳ thứ hai được kéo dài thành 4,5 năm và chu kỳ thứ ba thực hiện trong vòng 5 năm. Cứ mỗi năm Nhóm làm việc UPR của HRC rà soát được 42 quốc gia trong 3 kỳ họp, mỗi kỳ rà soát được 14 quốc gia. HRC xác định [http://www.ohchr.org/EN/HRBodies/UPR/Documents/uprlist.pdf thứ tự rà soát] cho chu kỳ UPR đầu tiên (2008-2012) vào ngày 21 tháng 9 năm 2007 thông qua việc rút thăm và thứ tự tương tự sẽ được duy trì trong các chu kỳ thứ hai và tiếp theo. Thứ tự rà soát đầu tiên tuân theo nghị quyết 5/1 yêu cầu rằng tất cả 47 quốc gia thành viên của HRC phải được rà soát trong nhiệm kỳ thành viên, bên cạnh một số tiêu chí khác.

UPR đã trải qua hai chu kỳ và đang ở chu kỳ thứ ba. Theo Quyết định A/HRC/DEC/47/115 của Hội đồng Nhân quyền ngày 03/8/2021, chu kỳ thứ tư sẽ bắt đầu vào tháng 10-11/2022 sau khi kỳ họp thứ 50 của Hội đồng thông qua các văn bản cuối cùng về UPR chu kỳ thứ ba.

Cơ sở của việc rà soát

Cơ sở của việc rà soát một quốc gia trong UPR là: (a) Hiến chương Liên hợp quốc; (b) Tuyên ngôn nhân quyền phổ quát; (c) Các điều ước nhân quyền mà một quốc gia là thành viên; và (d) các lời hứa và cam kết tự nguyện của Nhà nước, bao gồm cả những cam kết được đưa ra khi ứng cử vào HRC. Việc rà soát một quốc gia cũng có tính đến luật nhân đạo quốc tế phù hợp.

Tài liệu làm cơ sở cho việc rà soát

Việc rà soát một quốc gia trong UPR được tiến hành dựa trên ba tài liệu: Các tài liệu này bao gồm báo cáo của nhà nước, thông tin từ các cơ quan LHQ và bản tóm tắt thông tin từ các bên liên quan, kèm theo báo cáo cụ thể của từng bên liên quan, dự thảo và báo cáo chính thức của Nhóm công tác về UPR, Kết quả UPR (bao gồm quan điểm và trả lời của nước được rà soát), Nghị quyết của Hội đồng Nhân quyền thông qua Kết quả UPR; ngoài ra còn có bản lưu Webcast của phiên đối thoại tương tác tại nhóm làm việc và phiên toàn thể của Hội đồng Nhân quyền thảo luận và thông qua kết quả UPR.

Nhóm làm việc về UPR

Nhóm làm việc về UPR gồm 47 quốc gia thành viên của HRC, do Chủ tịch HRC chủ trì và tiến hành rà soát các quốc gia. Nhóm công tác đã tổ chức rà soát lần đầu tiên vào năm 2008. Mỗi phiên rà soát diễn ra trong ba giờ rưỡi, 70 phút dành cho Nhà nước được kiểm điểm thảo luận về khuôn khổ nhân quyền trong nước, các biện pháp đã thực hiện để thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở trong nước, các vấn đề nhân quyền liên quan và các bước đã thực hiện để giải quyết và khắc phục vi phạm. Đây cũng là cơ hội để Nhà nước trình bày lời hứa và cam kết nhân quyền tự nguyện. Sau phần trình bày của Nhà nước, phần đối thoại tương tác diễn ra trong vòng 140 phút tiếp theo. Trong phần này các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc đặt câu hỏi cho Nhà nước và đưa ra các khuyến nghị nhằm cải thiện tình hình và hoạt động nhân quyền của mình. Điều đáng chú ý là tất cả 193 quốc gia thành viên LHQ (cả thành viên HRC và không) đều có thể tham gia đối thoại.

Rất nhiều vấn đề đã được đề cập đến trong quá trình kiểm điểm định kỳ phổ quát. Có khả năng tất cả các vấn đề nhân quyền có thể được đề cập trong cơ chế này. Trong khi việc đếm số lượng khuyến nghị thực tế rất phức tạp do thực tế là các khuyến nghị được nhóm lại với nhau trong báo cáo của Nhóm công tác, một tổ chức phi chính phủ là UPR - Info đã đếm được 21.356 khuyến nghị và 599 cam kết tự nguyện trong chu kỳ UPR đầu tiên.

Vai trò của Troika và việc soạn thảo báo cáo của Nhóm công tác

Mỗi phiên rà soát được hỗ trợ bởi một nhóm gồm ba quốc gia, được gọi là troika, đóng vai trò là báo cáo viên. Các troika có trách nhiệm nhận các câu hỏi do các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc gửi trước đến quốc gia đang được rà soát. Vai trò thứ hai của troika là chuẩn bị một tài liệu báo cáo kết quả rà soát, bao gồm một bản tóm tắt trình tự rà soát, các khuyến nghị được đề xuất từ các quốc gia, kết luận và các cam kết tự nguyện do Nhà nước được rà soát đưa ra. Tài liệu kết quả được chuẩn bị với sự hỗ trợ của Ban thư ký UPR và các khuyến nghị trong kết quả rà soát được phân cụm theo chủ đề. Những việc này được tiến hành với sự tham gia và chấp thuận đầy đủ của Nhà nước được rà soát và các Quốc gia đưa ra khuyến nghị.

Thông qua kết quả

Ba mươi phút được dành cho việc thông qua tài liệu kết quả ở giai đoạn sau trong cùng phiên họp của Nhóm công tác, trong đó Nhà nước được rà soát có cơ hội sơ bộ để cho biết liệu có ủng hộ các khuyến nghị được đề xuất bởi các quốc gia cũng như các kết luận phản ánh trong tài liệu kết quả. Sau khi được thông qua, tài liệu kết quả được chuyển đến HRC để thảo luận và thông qua trong phiên toàn thể. Vào giai đoạn từ khi kết thúc việc rà soát tại Nhóm công tác và Phiên toàn thể tiếp theo của Hội đồng Nhân quyền, Quốc gia được rà soát được trong đợi sẽ xác nhận những khuyến nghị UPR được chấp nhận hay là không.

Phiên họp toàn thể của HRC

UPR là một mục thường trực trong chương trình nghị sự của HRC (mục 6). Mỗi kỳ họp của HRC đều phân bổ thời gian cho việc xem xét và thông qua các tài liệu kết quả được chuyển lên từ Nhóm công tác UPR. Mỗi tài liệu được dành một giờ để xem xét và thông qua, trong đó Nhà nước được rà soát có cơ hội trình bày câu trả lời cho các câu hỏi hoặc vấn đề chưa được giải quyết đầy đủ trong cuộc đối thoại tương tác tại Nhóm Công tác. Thành viên HRC và các quốc gia quan sát viên cũng có cơ hội bày tỏ quan điểm của họ về kết quả rà soát trước khi HRC có hành động. Các cơ quan nhân quyền quốc gia hạng 'A' và các tổ chức phi chính phủ có tư cách tham vấn với Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên Hợp Quốc (ECOSOC) có cơ hội đưa ra 'nhận xét chung' trước khi thông qua báo cáo kết quả. Đây là cơ hội duy nhất để xã hội dân sự phát biểu trong UPR.

Tiếp nối kết quả UPR

UPR là một cơ chế hợp tác được thực hiện chủ yếu bởi các Nhà nước. Tuy vậy để có kết quả rà soát thực sự có ý nghĩa các quốc gia được khuyến khích tiến hành tham vấn rộng rãi với tất cả các bên liên quan về vấn đề này.

Các quốc gia được khuyến khích cung cấp cho Hội đồng, trên cơ sở tự nguyện, mộ̣t bản cập nhật giữa kỳ về việc thực hiện các khuyến nghị được chấp nhận. Kể từ ngày 20 tháng 2 năm 2013 đến tháng 6/2016, 28 quốc gia đã gửi báo cáo giữa kỳ lên HRC.

Theo Nghị quyết 16/21, các bên liên quan được khuyến khích đưa thông tin về việc theo dõi đánh giá thực hiện các khuyến nghị trước đó trong các báo cáo của họ. Bản tóm tắt thông tin của các bên liên quan cung cấp cũng dành một phần riêng cho đóng góp của Cơ quan nhân quyền quốc gia của Nhà nước được rà soát nếu cơ quan này được công nhận là tuân thủ đầy đủ các Nguyên tắc Paris.

Quỹ Tự nguyện Hỗ trợ Tài chính và Kỹ thuật, được Hội đồng thành lập trong Nghị quyết 6/17 cung cấp nguồn hỗ trợ tài chính và kỹ thuật để giúp các quốc gia thực hiện các khuyến nghị phát sinh từ đánh giá của họ.

Các quốc gia có thể yêu cầu đại diện của Liên Hợp Quốc ở cấp quốc gia hoặc khu vực hỗ trợ họ trong việc thực hiện các kết quả rà soát. Việc hỗ trợ này cần tập trung vào các nhu cầu và ưu tiên quốc gia, như được phản ánh trong các kế hoạch quốc gia thực hiện kết quả rà soát. và tác dụng thực sự của UPR trên thực tế. Năm 2012, tổ chức này đã công bố [https://www.upr-info.org/sites/default/files/general-document/pdf/2012_on_the_road_to_implementation.pdf nghiên cứu] đầu tiên về đánh giá các triển khai này của 66 quốc gia. Ấn phẩm tiếp theo vào năm 2014, có tiêu đề [https://www.upr-info.org/sites/default/files/general-document/pdf/2014_beyond_promises.pdf Beyond Promising] , đã đánh giá 165 quốc gia và chia sẻ các thực hành tốt nhất quan sát được từ các quốc gia, các cơ quan nhân quyền quốc gia và NGO. Ấn phẩm thứ ba, được phát hành vào năm 2016 và được đặt tên là [https://www.upr-info.org/sites/default/files/general-document/pdf/2016_the_butterfly_effect.pdf Hiệu ứng cánh bướm] , nhằm mục đích truyền bá các thực hành tốt nhất trong UPR và truyền cảm hứng cho tất cả các bên quan tâm.

Nhà nước không hợp tác với UPR

Sau khi dùng hết mọi nỗ lực để khuyến khích một quốc gia hợp tác với cơ chế UPR, HRC sẽ giải quyết một cách phù hợp các trường hợp không hợp tác với cơ chế này.

Trường hợp bất hợp tác dai dẳng đầu tiên được thảo luận là UPR của Israel. Israel đã không được rà soát như dự kiến vào ngày 29 tháng 1 năm 2013. Do đó, HRC đã thảo luận vào tháng 3 và tháng 6 2013 về vấn đề "không hợp tác dai dẳng". Cuối cùng, Israel đã nối lại hợp tác với HRC và được rà soát vào ngày 29 tháng 10 năm 2013, nhưng HRC đã bỏ lỡ cơ hội để xác định "không hợp tác dai dẳng" là gì.

Cơ hội đóng góp cho UPR của các bên liên quan

Các quy tắc điều chỉnh sự tham gia của cơ quan nhân quyền quốc gia và NGO tại HRC, và do đó trong cơ chế UPR, được quy định bởi nghị quyết 5/1, trong đó nêu rõ rằng sự tham gia của các bên này sẽ dựa trên 'các hoạt động đã có tại Ủy ban Nhân quyền [trước đây], trong khi đảm bảo sự đóng góp hiệu quả nhất của các thực thể này '.

Trong khi UPR là một quá trình liên chính phủ, có một số cơ hội đóng góp cho các bên liên quan phi chính phủ. Những cơ hội này bao gồm:

  • Tham gia vào các cuộc tham vấn quốc gia để chuẩn bị báo cáo quốc gia của Nhà nước. Các quốc gia được khuyến khích thực hiện các quy trình tham vấn quốc gia rộng rãi để chuẩn bị các báo cáo quốc gia của họ
  • Gửi thông tin cho phiên rà soát. Báo cáo này có thể được đưa vào bản tóm tắt thông tin do các bên liên quan do OHCHR chuẩn bị như đã nêu ở trên
  • Tham dự phiên rà soát tại Nhóm công tác về UPR. Các bên liên quan có thể tham dự các phiên họp của Nhóm công tác, nhưng không được tham gia vào cuộc đối thoại tương tác giữa các quốc gia.
  • Tham dự phiên họp của HRC mà tại đó báo cáo kết quả rà soát của một quốc gia được thông qua. Các Cơ quan Nhân quyền Quốc gia được xếp hạng A và các tổ chức NGO có tư cách tham vấn với ECOSOC có thể đưa ra 'bình luận chung' trước khi thông qua báo cáo kết quả
  • Gửi báo cáo bằng văn bản theo chương trình nghị sự HRC mục 6 (UPR). Các cơ quan nhân quyền quốc gia và các tổ chức phi chính phủ được ECOSOC công nhận có thể gửi báo cáo bằng văn bản
  • Khi thích hợp, theo dõi việc thực hiện các khuyến nghị UPR

Đánh giá về UPR của HRC

Trong nghị quyết 60/251, Đại hội đồng yêu cầu HRC phải xem xét và báo cáo về công việc và chức năng của mình sau năm năm đầu tiên. Vào tháng 10 năm 2009, HRC đã thành lập nhóm làm việc mở liên chính phủ về đánh giá công việc và chức năng của HRC (gồm 47 quốc gia thành viên của HRC) để dẫn dắt quá trình đánh giá này. Do Chủ tịch HRC lúc đó (Đại sứ Sihasak Phuangketkeow của Thái Lan) chủ trì, Nhóm công tác đã họp hai phiên họp quan trọng. Phiên làm việc nhóm đầu tiên diễn ra vào ngày 25 tháng 10 năm 2010; phiên thứ hai được tổ chức vào ngày 7, 17-18 và 23 tháng 24 năm 2011.

Vào ngày 25 tháng 3 năm 2011, HRC đã thông qua nghị quyết 16/21 đánh giá kết quả công việc và chức năng của HRC, sau đó là quyết định 17/119 ngày 19 tháng 7 năm 2011 của HRC với những thay đổi sau đây đối với UPR:

  • Độ dài của các chu kỳ tiếp theo: Các chu kỳ thứ hai và tiếp theo sẽ kéo dài 4,5 năm với 14 kỳ trong mỗi chu kỳ
  • Số lượng quốc gia mỗi kỳ: 14 Bang sẽ được xem xét mỗi kỳ họp, trong tổng số 42 quốc gia mỗi năm
  • Thời gian đánh giá: Mỗi phiên rà soát sẽ kéo dài 3,5 giờ. Quốc gia được rà soát được dành cho 70 phút và các quốc gia khác 140 phút
  • Thứ tự đánh giá: Thứ tự đánh giá sẽ hoàn toàn giống nhau. Vì chỉ có 14 quốc gia được xem xét mỗi kỳ, hai quốc gia cuối cùng của kỳ 1 sẽ được chuyển sang đầu phiên 2, bốn quốc gia cuối của kỳ 2 sẽ được chuyển sang đầu kỳ 3, v.v.
  • Trọng tâm của các chu kỳ tiếp theo: Các chu kỳ thứ hai và tiếp theo nên tập trung vào, ngoài các vấn đề khác, việc thực hiện các khuyến nghị được chấp nhận và diễn biến tình hình nhân quyền ở quốc gia được rà soát.
  • Danh sách người phát biểu: Đối với mỗi phiên rà soát, các quốc gia sẽ được sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái tiếng Anh và người phát biểu đầu tiên sẽ được xác định bằng cách rút thăm. Các quốc gia sẽ có thể hoán đổi vị trí và tất cả các quốc gia sẽ được phát biểu. Nếu cần, thời gian cho mỗi người phát biểu sẽ giảm xuống còn hai phút mỗi lần hoặc 140 phút sẽ được chia cho số lượng người phát biểu.
  • Hướng dẫn chung: Quyết định hướng dẫn chung A/HRC/DEC/6/102 cho việc soạn thảo ba báo cáo làm cơ sở của đánh giá đã được sửa đổi một chút để nhấn mạnh yêu cầu với quốc gia được rà soát báo cáo về việc thực hiện các khuyến nghị trước đó.
  • Phân cụm các khuyến nghị: Các khuyến nghị có trong tài liệu kết quả UPR được phân cụm theo chủ đề, với sự tham gia và chấp thuận đầy đủ của Nhà nước được rà soát và các Quốc gia đưa ra các khuyến nghị
  • Phản hồi về các khuyến nghị: Các quốc gia nên trao đổi rõ ràng với Hội đồng, dưới dạng văn bản tốt nhất là gửi trước phiên toàn thể của Hội đồng, về quan điểm với các khuyến nghị đã nhận được
  • Báo cáo giữa kỳ: Các quốc gia được khuyến khích cung cấp cho Hội đồng, trên cơ sở tự nguyện, bản cập nhật giữa kỳ về việc theo dõi các khuyến nghị được chấp nhận
  • Vai trò của các cơ quan nhân quyền quốc gia: Cơ quan nhân quyền quốc gia (NHRI) có trạng thái A sẽ có phần dành riêng trong bản tóm tắt thông tin của các bên liên quan và sẽ được trực tiếp phát biểu sau quốc gia được rà soát trong phiên họp toàn thể của HRC
  • Vai trò của NGO: Các quốc gia được khuyến khích tiến hành tham vấn rộng rãi với tất cả các bên liên quan về việc tiếp nối và thực thi khuyến nghị. Các bên liên quan khác được khuyến khích đưa thông tin về việc theo dõi đánh giá các khuyến nghị được đưa ra trước đó.
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát** còn được gọi là **Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát** (tiếng Anh: Universal Periodic Review), viết tắt là UPR, là một cơ chế của Hội đồng Nhân
**Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát** còn được gọi là **Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát** (tiếng Anh: Universal Periodic Review), viết tắt là UPR, là một cơ chế của Hội đồng Nhân
thumb|Phòng Nhân quyền và Liên minh các nền văn hóa, được sử dụng bởi Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, trong _[[Palais des Nations_, Geneva, Thụy Sĩ.]] Huy hiệu Hội đồng Nhân quyền Liên
**Ủy ban Nhân quyền** hay **Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc** (tiếng Anh: _Human Rights Committee_) là một cơ quan trực thuộc Liên Hợp Quốc gồm 18 chuyên gia độc lập có nhiệm vụ
thumb|alt=Kidney transplants rose from about 3,000 in 1997 to 11,000 in 2004, falling to 6,000 in 2007. Liver transplants rose from a few hundred in 2000 to 3,500 in 2005, then dropped to 2,000 in
Đây là dòng thời gian các sự kiện chính trong lịch sử của người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới (LGBT) ở Việt Nam. Trong bài cũng đề cập đến
Quyền **LGBT** (tiếng Dhivehi: _???_) ở **Maldives** vẫn đang được phát triển khi đất nước tiếp tục phản đối mạnh mẽ cải cách luật pháp và phát triển quyền LGBT thông qua Cơ chế rà
**Phan Kim Khánh** (sinh năm 1993) là một sinh viên và blogger người Việt Nam đến từ tỉnh Phú Thọ, Việt Nam. Khánh đã bị kết án 6 năm tù và 4 năm quản thúc
**Cải cách thể chế Việt Nam 2024–2025** hay cuộc **Cách mạng tinh gọn bộ máy Việt Nam** là một cuộc cải cách trên quy mô lớn từ trung ương đến địa phương ở Việt Nam,
nhỏ|Prusa I3, một máy in sợi nóng chảy đơn giản
**Chế tạo bằng sợi nóng chảy (FFF)** là một quá trình in 3D sử dụng một sợi bằng vật liệu nhựa nhiệt dẻo liên
thumb|Rau củ quả từ trang trại hữu cơ thuộc công ty Riverford Organic Farmers. thumb|Logo "Euro-Blatt", con dấu hữu cơ theo Quy định (EC) số 834/2007 về sản xuất hữu cơ và ghi nhãn sản
right|thumb|[[Phân tầng xã hội truyền thống của những nước phương tây trong thế kỷ XV]] right|thumb **Giáo hội và nhà nước ở châu Âu thời trung cổ** nêu rõ sự tách biệt nguyên tắc phân
**Trí tuệ nhân tạo tổng quát** (**Artificial general intelligence**, hay **AGI**) là một loại trí tuệ nhân tạo (AI) trong lý thuyết, nằm giữa cận dưới và cận trên của năng lực nhận thức con
**Dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở Hoa Kỳ** được cung cấp bởi nhiều tổ chức khác nhau, bao gồm các công ty bảo hiểm, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, hệ
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
**Văn minh cổ Babylon** hay **Babylonia** () là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad và là một vùng văn hóa có trung tâm tại trung-nam Lưỡng Hà (nay là Iraq và Syria). Ban
**Đế chế thứ hai** hay **Đệ Nhị đế chế** là vương triều Bonaparte được cai trị bởi Napoléon III từ 1852 đến 1870 tại Pháp. Đế quốc này được bắt đầu sau Đệ Nhị Cộng
thumb|upright=1.5|_Thánh Giá Mathilde_, cây thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ. **Thời kỳ Trung Cổ** (; hay còn gọi
nhỏ|Trận Poitiers qua bức họa "Bataille de Poitiers en Octobre 732" của [[Charles de Steuben]] **Sơ kỳ Trung cổ** là một thời kỳ lịch sử của châu Âu kéo dài từ năm 600 tới khoảng
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
**Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ** (Tiếng Đức: _Großer Türkenkrieg_), còn được gọi là **Chiến tranh Liên đoàn Thần thánh** (Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Kutsal İttifak Savaşları_), là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế
**Nghiên cứu định tính** là một phương pháp điều tra được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, không chỉ trong các ngành khoa học truyền thống mà còn trong nghiên cứu
**Kỹ sư** (hay **_Kĩ sư_** - theo tiếng lóng; **_Bác vật_** - từ cũ ở miền Nam), là danh từ chỉ học vị của người đã qua đào tạo chuyên môn về khoa học ứng
**Phổ** (tiếng Đức: Preußen; tiếng Latinh: _Borussia_, _Prutenia_; tiếng Anh: Prussia; tiếng Litva: _Prūsija_; tiếng Ba Lan: _Prusy_; tiếng Phổ cổ: _Prūsa_) là một quốc gia trong lịch sử cận đại phát sinh từ Brandenburg,
**Chủ nghĩa tự do hiện đại Hoa Kỳ** là phiên bản chủ đạo của chủ nghĩa tự do tại Hoa Kỳ. Nó kết hợp ý tưởng của tự do dân sự (_civil liberty_) và bình
**Thể chế chính trị nhà Triều Tiên** được vận hành theo chế độ quan liêu tập quyền, dựa trên lý tưởng Nho giáo Tính Lý Học (성리학) làm nền tảng. Về lý thuyết, vua Triều
**Charlotte của Phổ** (tiếng Đức: _Victoria Elisabeth Augusta Charlotte von Preußen_; 24 tháng 7 năm 1860 – 1 tháng 10 năm 1919) là Công tước phu nhân xứ Sachsen-Meiningen từ năm 1914 cho đến năm
**Xác định niên đại tuyệt đối** hay **Xác định độ tuổi tuyệt đối** là quá trình xác định niên đại cho những niên đại hoặc đối tượng vật chất xác định trong khảo cổ và
**Vũng Tàu** là một thành phố cũ thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Đây là trung tâm kinh tế, tài chính, văn hóa, du lịch, và là một
**Cờ vua** (), đôi khi còn được gọi là **cờ quốc tế** để phân biệt với các biến thể như cờ tướng, là một trò chơi board game dành cho hai người. Sau thời gian
**Cờ vây** là một trò chơi dạng chiến lược trừu tượng cho hai người chơi, trong đó mục tiêu là bao vây nhiều lãnh thổ hơn đối thủ. Trò chơi được phát minh ở Trung
**Po Binasuor** hay còn được biết đến rộng rãi hơn với tên gọi **Chế Bồng Nga** (Hán-Việt: 制蓬峩, ? - 23 tháng 1 năm 1390 ÂL), theo cách gọi của người Ê Đê và Giarai
**Sophie của Phổ** (tiếng Đức: _Sophie von Preußen_; tiếng Hy Lạp: Σοφία της Πρωσίας; 4 tháng 6 năm 1870 – 13 tháng 1 năm 1932) là Vương hậu Hy Lạp từ ngày 18 tháng 3
thumb|right|Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và trẻ em dưới 2 tuổi cần cải thiện tình trạng dinh dưỡng bằng cách ăn thực phẩm tốt cho sức khỏe Trong dinh dưỡng, **chế độ ăn
[[Tập tin:America 1000 BCE.png|thumb|right|Lược đồ thể hiện các cộng đồng người ở châu Mỹ vào năm 1000 trước Công nguyên. ]] **Thời kỳ tiền Colombo** () bao hàm tất cả các giai đoạn lịch sử
thumb|Sơ đồ cấu tạo xi lanh trong động cơ xăng bốn kỳ: **Động cơ đốt trong** (tiếng Anh: **_i**nternal **c**ombustion **e**ngine_; viết tắt: **ICE**) là một loại động cơ nhiệt, trong đó quá trình đốt
nhỏ|phải|[[Viên uống tránh thai kết hợp. Được giới thiệu năm 1960, "thuốc tránh thai" đã đóng một vai trò quan trọng trong kế hoạch hoá gia đình trong nhiều thập kỷ.]] **Kế hoạch hoá gia
**Cảng cổ Nisaruin** () là một quần thể hải cảng cổ xưa ở vịnh Dreamer, trên mũi đất phía nam của bán đảo Akrotiri thuộc đảo Síp. Những di tích còn lại có niên đại
thumb|Hệ thống cơ điện tử **Cơ điện tử** hay **Kỹ thuật cơ điện tử** là một nhánh kỹ thuật liên ngành chú trọng vào các ngành kỹ thuật điện tử và kỹ thuật cơ khí,
Bức _Trinh nữ dịu dàng và trầm ngâm có sức mạnh thuần dưỡng kỳ lân_ (1602), tranh [[fresco,Domenico Zampieri, trưng bày tại Palazzo Farnes, Roma]] **Kỳ lân** trong văn hóa châu Âu hay còn gọi
**Nghiện đánh bạc** hay **nghiện cờ bạc** là một sự thôi thúc để đánh bạc liên tục bất chấp hậu quả tiêu cực có hại hoặc mong muốn dừng lại. Vấn đề đánh bạc thường
nhỏ|423x423px| _Sản xuất so với sau bán hàng_ **Định giá phụ tùng dịch vụ** đề cập đến khía cạnh _quản lý vòng đời dịch vụ_ liên quan đến việc đặt giá cho các phụ tùng
**Định giá sai chuyển nhượng**, còn được gọi là **thao túng giá chuyển nhượng** hoặc **định giá chuyển nhượng lừa đảo** hoặc **chuyển giá lừa đảo**/ **gian lận**, đề cập đến giao dịch giữa các
**Quốc kỳ Syria** (; ) do ba hình chữ nhật nằm ngang song song màu đỏ, trắng và đen hợp thành, giữa dải màu trắng có hai ngôi sao năm cánh màu lục. Bốn màu
nhỏ|phải|Voi châu Phi, loài voi bị săn bắn dữ dội để lấy ngà **Săn voi** là hành động săn bắt hoặc giết voi của các cộng đồng người dân châu Phi hay châu Á. Lịch
**Quyết định luận công nghệ** là một lý thuyết giản hóa luận mà giả định rằng công nghệ của xã hội thúc đẩy sự phát triển cấu trúc xã hội và các giá trị văn
**Đệ Nhất Cộng hòa** (1955–1963), còn được gọi là **Chính quyền Ngô Đình Diệm**, là chính thể của Việt Nam Cộng hòa được thành lập sau cuộc Trưng cầu dân ý năm 1955 ở miền
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Ephesus** (; Đền này có thể đã được xây dựng lại hoặc sửa chữa, nhưng điều này không chắc chắn, vì lịch sử sau đó của nó không được rõ ràng. Hoàng đế Constantinus Đại