Chùa Khai Nguyên hay còn gọi là chùa Xuân La, địa chỉ Tổ 39 Cụm 5A phường Xuân La, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Ngày giỗ đại lễ 24 tháng 2 âm lịch hàng năm.
Lịch sử
Chùa Khai Nguyên thường được gọi là chùa Quán La. Chùa còn có tên là chùa Hang, vì ở đây có một hang cổ.
Trong chùa còn có tấm biển đề Khai Nguyên tự. Chuông chùa cũng có tên là Khai Nguyên tự chung (Chuông chùa Khai Nguyên).
Theo sách Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên thì chùa (quán) được xây dựng vào niên hiệu đời Đường, niên hiệu Khai Nguyên (715). Lúc bấy giờ, đây là nơi hành đạo của nhiều đạo sĩ và thu hút nhiều du khách đến tham quan. Đến năm Thiên Long đời Trần (Trần Dụ Tông 1341 - 1369), thiền sư Văn Thao cho trùng tu quán, rồi dựng lại thành chùa thờ Phật, đặt tên là An Dưỡng Tự. Sau đó, nhà sư đã đi đến nơi khác tu hành nên chùa bị hoang phế. Đến thời Lê, chùa mới được dựng lại với kiến trúc chùa như hiện nay.
Chùa có Tam bảo, nhà Mẫu và nhà bia. Toà Tam bảo hình chuôi vồ có tiền đường và thượng điện. Tiền đường gồm năm gian xây kiểu tường hồi bít đốc. Thượng điện gồm ba gian. Chùa còn lưu trữ được những mảnh chạm khắc cổ có niên đại thế kỉ 19.
Cách bài trí ở chùa cũng có đặc điểm như các chùa khác, chỉ có khác là có thêm một pho tượng mà người làng vẫn khẳng định là tượng Đường Minh Hoàng (vua nhà Đường - Trung Quốc). Tượng tạc hình một người đàn ông trung niên, mặc áo long bào, đội chiếc mũ thường phục của các vua Đường.
Một điều đáng chú ý và khó giải thích là chùa có một tấm bia công đức có niên đại Thái Đức thứ 11 (1788). Thái Đức là niên hiệu của Nguyễn Nhạc. Thế nhưng, năm 1788, Lê Chiêu Thống vẫn còn trị vì ở Thăng Long.
Chùa đã được Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích kiến trúc, nghệ thuật vào ngày 31/01/1992.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chùa Khai Nguyên** hay còn gọi là **chùa Xuân La**, địa chỉ Tổ 39 Cụm 5A phường Xuân La, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Ngày giỗ đại lễ 24 tháng 2 âm lịch
**Chùa sắc tứ Khải Đoan** (敕賜啓端寺,_Sắc tứ Khải Đoan tự_), là ngôi chùa lớn nhất thành phố Buôn Ma Thuột và cả tỉnh Đắk Lắk, nằm ở phường Thống Nhất. Đây cũng là ngôi chùa
Tượng Phật [[A-di-đà do vua Gia Long dâng cúng năm 1804]] **Chùa Khải Tường** là một ngôi cổ tự, trước đây tọa lạc trên một gò cao tại ấp Tân Lộc, thuộc Gia Định xưa;
thế=Chùa Khải Nam.|nhỏ|Chùa Khải Nam. **Chùa Khải Nam** là một ngôi chùa có lịch sử lâu đời hơn 8 thế kỷ, thuộc địa phận phường Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Chùa được nhà nước Việt
**Công chúa** (chữ Hán: 公主) là một tước hiệu dành cho nữ giới, thường được phong cho con gái Hoàng đế. Tước hiệu này cũng được dùng để phong cho một số người phụ nữ
nhỏ|196x196px|Chân dung Bà Chúa Nhất **Nguyễn Phúc Tốn Tùy** (còn có âm đọc là **Tôn Thụy**) (chữ Hán: 阮福巽隨; 1872 – 1964), thường được gọi là **Bà Chúa Nhất**, phong hiệu **Mỹ Lương Công chúa**
thế=Groups of two to twelve dots, showing that the composite numbers of dots (4, 6, 8, 9, 10, and 12) can be arranged into rectangles but the prime numbers cannot|nhỏ| Hợp số có thể được
Vị trí vùng Tây Nguyên trên bản đồ Việt Nam [[Lâm Đồng]] [[Đắk Lắk]] **Tây Nguyên** hay **vùng cao nguyên Nam Trung Bộ** là khu vực địa lý với địa hình cao nguyên thuộc miền
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
|} **Nguyên tử** là đơn vị cơ bản của vật chất chứa một hạt nhân ở trung tâm bao quanh bởi đám mây điện tích âm các electron (âm điện tử). Hạt nhân nguyên tử
**Chùa Từ Ân** còn có tên là **Sắc Tứ Từ Ân Tự** (敕賜慈恩寺), được xây dựng vào thế kỷ 18 ở khu vực Chợ Đũi, mà vị trí nằm trong Công viên Tao Đàn, thuộc
**Công chúa** (chữ Hán: 公主) là tước hiệu được sử dụng bởi các quốc gia Đông Á chịu ảnh hưởng từ nền văn minh Trung Hoa, thường được phong cho con gái của Hoàng đế,
**Chùa Tập Phước** (潗福寺) còn có tên là **Sắc Tứ Tập Phước Tự** (敕賜潗福寺) (vì chùa được vua Gia Long sắc tứ năm 1802), hiện toạ lạc ở số 233 đường Phan Văn Trị, quận
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
thumb|[[Bảng tuần hoàn]] **Nguyên tố hóa học**, thường được gọi đơn giản là **nguyên tố**, là một chất hóa học tinh khiết, bao gồm một kiểu nguyên tử, được phân biệt bởi số hiệu nguyên
**Tôn Thất Hiệp** (chữ Hán: 尊室協; 1653-1675) là một hoàng tử, con của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần. Ông từng là Nguyên soái thống lĩnh quân Đàng Trong đánh nhau với quân Trịnh vào năm
**Nguyễn Khoa Chiêm** (阮科占, Kỷ Hợi 1659–Bính Thìn 1736) tự _Bảng Trung_ (榜中), tước _Bảng Trung Hầu_, là công thần trải hai triều chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu và Nguyễn Phúc Chú thời Lê
Quốc Ân Tự **Chùa Quốc Ân** (國恩寺) là một trong những ngôi tổ đình danh tiếng và lâu đời bậc nhất tại cố đô Huế. Hiện tại chùa Quốc Ân vẫn còn bảo lưu nhiều
**Nguyễn Bặc** (chữ Hán: 阮匐; 924 - 7 tháng 11 năm 979), hiệu **Định Quốc Công** (定國公), là khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Triệu Luật** (1903-1946), bút hiệu: **Dật Lang**, **Phất Văn Nữ Sĩ**; là nhà giáo, nhà văn, nhà báo và là thành viên sáng lập Việt Nam Quốc dân Đảng vào năm 1927 tại Việt
nhỏ|"Khải thị [[phán xét cuối cùng" do Jacob de Backer vẽ.]] nhỏ|Những lời dự ngôn của [[Muhammad và kêu gọi triệu tập của sự khải thị đầu tiên.]] **Khải thị** (chữ Anh: _Revelation_), hoặc gọi
**Nguyễn Phúc Chu** (chữ Hán: 阮福淍, 11 tháng 6 năm 1675 – 1 tháng 6 năm 1725) hay **Nguyễn Hiển Tông**, là vị chúa Nguyễn thứ sáu của Đàng Trong, vùng đất phía Nam nước
**Nguyễn Phúc Tần** (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay **Nguyễn Thái Tông**, tước hiệu **Dũng Quận công** (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là
**Nguyễn Kim** (chữ Hán: 阮淦, 1468–1545), là một nhà chính trị và quân sự giai đoạn Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là người lãnh đạo trên thực tế của
right|thumb|Tượng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trong đình Bình Kính, [[Hiệp Hòa, Biên Hòa|xã Hiệp Hòa, Biên Hòa]] **Nguyễn Hữu Cảnh** (chữ Hán: 阮有鏡, 1650 – 1700), nguyên danh là **Nguyễn Hữu Kính**, với
/Mật ong và sữa ong chúa tươi nguyên chất đều là những sản phẩm được khai thác từ loài ong. Sữa ong chúa trộn với mật ong tạo nên mật ong sữa ong sữa chúa
**Tôn Thất Hiệp** (chữ Hán: 尊室洽; ? - ?) là con trai thứ 7 của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Sinh thời, ông được phong tước **Văn quận công** (文郡公), từng giữ chức Chưởng cơ của
**Chùa sắc tứ** là ngôi chùa được vua chúa nhà Nguyễn sắc tứ, có thể là các chùa sau: * Chùa sắc tứ Huệ Lâm ở quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. * Chùa
**Anrê Nguyễn Văn Nam** (22 tháng 2 năm 192216 tháng 3 năm 2006) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông từng đảm trách cương vị giám mục chính tòa Giáo phận
**Chùa Linh Quang** (Linh Quang Tự) là một ngôi chùa tại huyện đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận, Việt Nam. Ngôi chùa này là một di tích lịch sử cấp quốc gia. Chùa toạ lạc
:''Xem các mục từ khác cùng tên tại bài Chúa Bầu (định hướng) **Chúa Bầu** (chữ Nôm: 主裒) là từ chỉ chung các đời dòng họ Vũ cát cứ ở Tuyên Quang suốt thời kỳ
nhỏ|phải|Chính điện chùa Vạn Đức **Chùa Vạn Đức** hiện tọa lạc tại số 502 trên đường Tô Ngọc Vân, thuộc khu phố 5, phường Tam Phú, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh,
**Nguyễn Thân** (chữ Hán: 阮紳, 1854–1914), biểu tự **Thạch Trì** (石池), là võ quan nhà Nguyễn dưới triều vua Đồng Khánh, từng phối hợp với thực dân Pháp đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong
**Nguyễn Phúc Lan** (chữ Hán: 阮福瀾, 13 tháng 8 năm 1601 - 19 tháng 3 năm 1648) hay **Nguyễn Thần Tông**, **Chúa Thượng** là vị chúa Nguyễn thứ ba của chính quyền Đàng Trong trong
**Phêrô Nguyễn Văn Nhơn** (sinh ngày 1 tháng 4 năm 1938) là một hồng y, giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận tước vị Hồng y Đẳng Linh mục Nhà thờ
**Nguyễn Phúc Khoát** (chữ Hán: 阮福濶), hay **Nguyễn Thế Tông**, húy là **Hiểu** (chữ Hán: 曉), còn gọi là **Chúa Võ**, hiệu **Vũ vương** hay **Võ vương** (1714–1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 của
**Nguyễn Phúc Trung** (chữ Hán: 阮福忠), sau gọi là **Tôn Thất Trung**, là một vị tướng dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Ông nổi tiếng vì vụ bê bối
**Nguyễn Phúc Dĩ Ngu** (chữ Hán: 阮福以娛; 1885 – 16 tháng 9 năm 1942), phong hiệu **Ngọc Lâm Công chúa** (玉林公主), là một công chúa con vua Đồng Khánh nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
**Nguyễn Hy Quang** (1634-1692), húy **Vẹ**, tự **Hy Quang**, là một nhà giáo, đại thần nhà Lê trung hưng đã phụ đạo cho Thái phó Lương Mục Công Trịnh Vịnh, đích tôn của chúa Trịnh
**Chùa Đại Giác** (大覺寺) còn gọi là **Đại Giác cổ tự**, **chùa Phật lớn** hay **chùa Tượng**; xưa thuộc thôn Bình Hoành, xã Hiệp Hòa, tổng Trấn Biên; nay là khu phố Nhị Hòa, phường
Nam mai trên gò Mai hiện nay. **Chùa Cây Mai** còn có tên là **Mai Sơn tự** (chùa núi Mai) hay **Mai Khâu tự** (chùa gò Mai), tọa lạc trên gò Mai, thuộc Gia Định
**Chùa Trấn Quốc** nằm trên một hòn đảo phía Đông Hồ Tây. Chùa có lịch sử gần 1500 năm và được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long - Hà Nội. Dưới thời nhà
**Nguyễn Phúc Dĩ Hy** (chữ Hán: 阮福以嬉; k. 1887 – 1907), thường bị gọi nhầm là **Hỷ Hỷ**, phong hiệu **Ngọc Sơn Công chúa** (玉山公主), là một công chúa con vua Đồng Khánh nhà Nguyễn
Thưa quý độc giả, Nguồn sử liệu về thời kỳ Lê - Nguyễn, từ thế kỷ XV đến nửa đầu thế kỷ XX, là một kho báu không bao giờ cạn kiệt, luôn có sức
**Nguyễn Phúc Ngọc Anh** (chữ Hán: 阮福玉瑛; 1790 – 1850), phong hiệu **Bảo Lộc Công chúa** (保祿公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử