Chim lội hay chim đầm lầy là một tập hợp các loài chim thuộc bộ Rẽ (Charadriiformes), trừ các loài chim biển thuộc họ Chim cướp biển (Stercorariidae), mòng biển (Laridae), họ Nhàn (Sternidae), họ Xúc cá (Rynchopidae) và họ Chim anca (Alcidae).
Có khoảng 210 loài chim lội, đa số các loài sống tại các môi trường đầm lầy hay ven biển. Nhiều loài sống ở Bắc Cực và miền ôn đới thường di trú. Vài loài chim vùng Bắc Cực, ví dụ loài rẽ nhỏ (Calidris minuta), là một vài trong số những loài chim di trú xa nhất và trải qua mùa không sinh sản ở Nam bán cầu. Trong khi đó, các loài sống ở vùng nhiệt đới thường định cư một chỗ và chỉ chuyển đi nơi khác để tránh mưa.
Đa số các loài chim lội bắt động vật không xương sống trong bùn hay mặt đất để ăn. Các loài khác nhau lại có chiều dài mỏ khác nhau, giúp chúng kiếm mồi trong cùng một khu vực sống mà không phải trực tiếp cạnh tranh nhau về nguồn thức ăn. Nhiều loài chim lội có các mút thần kinh nhạy cảm ở đầu mỏ, cho phép chúng dò tìm con mồi trốn trong bùn và đất mềm. Một số loài chim lớn hơn, đặc biệt là những loài sống nơi khô ráo hơn, thì ăn côn trùng và động vật bò sát nhỏ.
Nhiều loài chim lội kích thước nhỏ sống ở vùng ven biển. Calidris minutilla là loài nhỏ nhất trong số này; chim trưởng thành chỉ có khối lượng 15,5 g và chỉ dài 13 cm. Người ta cho rằng loài lớn nhất là loài rẽ mỏ cong hông nâu (Numenius madagascariensis) với chiều dài 63 cm và khối lượng 860 g. Tuy nhiên, loài Esacus magnirostris mới là loài có khối lượng cơ thể lớn nhất, đạt 1 kg.
Theo phân loại Sibley-Ahlquist, chim lội và nhiều nhóm chim khác được nhập làm một bộ lớn là bộ Hạc. Tuy nhiên, cách phân loại bộ Charadriiformes là một trong những điểm hạn chế nhất của phân loại Sibley-Ahlquist bởi lý do lai phân tử DNA không thể giải đáp thoả đáng mối quan hệ qua lại trong nhóm. Trước đây, người ta xếp các loài chim lội vào chung một phân bộ là Charadrii nhưng việc làm này có vẻ mang tính "phân loại kiểu sọt rác" (tức là dồn chung các loài vào một chỗ do không biết phải xếp chúng ở nơi nào khác) bởi có không dưới bốn nòi charadrii trong cận ngành được gộp vào đây. Căn cứ vào các nghiên cứu về sau (Ericson & ctg, 2003; Paton & ctg, 2003; Thomas & ctg, 2004a, b; van Tuinen & ctg, 2004; Paton & Baker, 2006), có thể chia chim lội thành:
nhỏ|Chim lội đậu tại bãi biển lúc thủy triều cao
nhỏ|Những con chim lội đang bay.
- Phân bộ Scolopaci
** Họ Scolopacidae (họ Dẽ)
- Phân bộ Thinocori
Họ Rostratulidae (họ Nhát hoa)
Họ Jacanidae
Họ Thinocoridae
Họ Pedionomidae
- Phân bộ Chionidi
Họ Burhinidae
Họ Chionididae
** Họ Pluvianellidae
- Phân bộ Charadrii
Họ Ibidorhynchidae
Họ Recurvirostridae (họ Cà kheo)
Họ Haematopodidae
Họ Charadriidae
Để giữ tính thống nhất với cách phân nhóm truyền thống thì phân bộ Thinocori có thể được gộp với Scolopaci, còn Chionidi thì gộp với Charadrii.
Theo Paton & ctg (2003) và Thomas & ctg (2004b), bốn nòi (tức phân bộ) "chim lội" khác biệt nhau đã xuất hiện từ khoảng giới tuyến Creta-Paleogen. Tầm hiểu biết càng ngày càng sâu sắc hơn về lịch sử tiến hoá thời kì đầu của các loài chim hiện đại khiến người ta cho rằng nhận định của các tác giả trên là đúng.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chim lội suối** hay **hoét nước họng trắng**, **hoét nước Á-Âu**, (danh pháp hai phần: _Cinclus cinclus_) là một loài chim thuộc họ Lội suối. Đây là một loài chim sẻ thủy sinh ở châu
**Chim lội** hay **chim đầm lầy** là một tập hợp các loài chim thuộc bộ Rẽ (Charadriiformes), trừ các loài chim biển thuộc họ Chim cướp biển (Stercorariidae), mòng biển (Laridae), họ Nhàn (Sternidae), họ
thumb|phải|[[Gà lôi hông tía là quốc điểu của Thái Lan.]] **Các loài chim ở Thái Lan** bao gồm 1095 loài tính đến năm 2021. Trong số đó, 7 loài đã được con người du nhập
**Chim** hay **điểu**, **cầm** (theo phiên âm Hán Việt) (danh pháp khoa học: **Aves**) là tập hợp các loài động vật có xương sống, máu nóng, đi đứng bằng hai chân, có mỏ, đẻ trứng,
**Họ Lội suối** hay **họ Hét nước** (danh pháp khoa học: **_Cinclidae_**) là một họ nhỏ chứa các loài chim dạng sẻ trong một chi duy nhất có danh pháp **_Cinclus_**. Tên gọi lội suối
**Gà lôi trắng Trung Bộ** hay còn gọi là **Gà lôi vằn** (Danh pháp khoa học: _Lophura nycthemera annamensis_; Ogilvie Grant, 1906) là một phân loài của loài gà lôi trắng. Đây là loài chim
thumb|right|[[Vịt cẩm thạch. Theo tính toán mùa xuân hè năm 1993, số lượng chim làm tổ trong mỗi hồ Sarisu và Aggol là 200 cá thể. Vào đầu năm 1995, 54 loài đá cẩm thạch
nhỏ|Một số loài chim nước trong hình: vịt, ngỗng, thiên nga Thuật ngữ **chim nước** hoặc **chim thủy sinh** (không nên nhầm lẫn với chim lội) được dùng để chỉ những con chim sống trên
**Khu bảo tồn chim Last Mountain Lake** là một di tích lịch sử quốc gia của Canada, nằm ở khu tự quản đồng quê của Thung lũng Last Mountain số 250 ở Saskatchewan. Đây là
**Bộ Chim điên** (danh pháp khoa học: **_Suliformes_**, còn gọi là "**Phalacrocoraciformes**" như theo _Christidis & Boles 2008_) là một tên gọi do Đại hội Điểu học Quốc tế (IOC) đề xuất. Do chứng cứ
nhỏ|_ Haematopus ostralegus_ **Chim mò sò** (danh pháp khoa học: **_Haematopus ostralegus_**) là một loài chim trong họ Haematopodidae. Đây là loài _Haematopus_ phổ biến nhất, với ba chủng sinh sản ở Tây Âu, trung
**Việt Nam** là một trong những quốc gia có sự đa dạng lớn về hệ **chim**. Chim Việt Nam là nhóm động vật được biết đến nhiều nhất, chúng dễ quan sát và nhận biết
phải|nhỏ|[[Đại bàng vàng]] nhỏ|[[Gyps fulvus|Kền kền ưng]] **Chim săn mồi** là các loài chim có lối sống ăn thịt bằng cách đi săn, chủ yếu là săn các động vật có xương sống, bao gồm
nhỏ|Trứng của Gà lôi lam mào trắng nhỏ|Gà lôi lam mào trắng (con mái) **Gà lôi lam mào trắng** (danh pháp hai phần: **_Lophura edwardsi_**) là một loài chim thuộc họ Trĩ (Phasianidae), đặc hữu
nhỏ|_ Lophura nycthemera _ **Gà lôi trắng** (danh pháp hai phần: **_Lophura nycthemera_**) là một loài chim lớn, có chiều dài khoảng 125 cm. Khi còn nhỏ gà trống và gà mái đều mang chung 1
Một đàn [[Hồng hạc Mỹ tại vườn chim.]] Lory Loft Pelican Cove, với tàu một ray. Hồ Hồng hạc **Vườn chim Jurong** (; tiếng Mã Lai: Taman Burung Jurong; tiếng Tamil: ஜுரோங் பறவை பூங்கா; tiếng
Ở Việt Nam, theo phân tích của tổ chức BirdLife quốc tế năm 1998 đã xác định có ba vùng chim đặc hữu (EBA): Vùng đất thấp Trung Bộ, Cao nguyên Đà Lạt và Vùng
thumb|right **Nuôi chim** là hoạt động nuôi nhốt, chăm sóc những con chim phục vụ cho các mục đích khác nhau của con người như nuôi các loài chim thuần hóa để lấy thịt, trứng,
nhỏ|phải|Một con chim cánh cụt, chúng là loài điển hình cho chim không bay **Chim không bay** là những con chim thông qua quá trình tiến hóa đã mất khả năng bay. Có hơn 60
_Hip hip hurra!_ Tranh vẽ [[Người Đan Mạch chúc rượu]] **Lời chúc rượu** (tiếng Anh: _toast_) là những lời nói trước khi chạm cốc và uống rượu trong những dịp lễ, hội, trong những cuộc
là loại ngư lôi có đường kính 610 mm được sử dụng bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản (do được thiết kế theo lịch của Nhật Bản khi đó là năm 2593). Ngư lôi Type
**Gà lôi Berli** hay **gà lôi trắng Berliozi** (Danh pháp khoa học: _Lophura nycthemera berliozi_). là một phân loài của loài gà lôi trắng. Chúng là loài đặc hữu của vùng Đông Dương. Phân loài
**Chim cánh cụt** hay còn gọi là **chim cụt cánh** (bộ **Sphenisciformes**, họ **Spheniscidae** - lấy theo chi _Spheniscus_ nghĩa là _hình nêm_) là một nhóm chim nước không bay được. Chúng hầu như chỉ
**Gà lôi tía** (tên khoa học: **_Tragopan temminckii_**) là loài gà lôi cỡ trung, chiều dài thân khoảng 64 cm, thuộc chi _Tragopan_. Gà lôi tía sống trong các khu rừng thuộc phía bắc của Nam
**Gà lôi trắng Beauli** hay còn gọi là **Gà lôi trắng Lào** (Danh pháp khoa học: _Lophura nycthemera beaulieui_; Delacour, l948) là một phân loài của loài gà lôi trắng. ## Phân bố Phân loài
**_Spheniscus demersus_** là một loài chim trong họ Spheniscidae. Loài chim cánh cụt này có phạm vi phân bố giới hạn trong vùng nước phía nam châu Phi. Giống như hầu hết tất cả các
**Gà lôi lam mào đen** (danh pháp hai phần: **_Lophura_** × **_imperialis_**) là một loại gà lôi thuộc họ Trĩ, bộ Gà, có màu lam thẫm, cỡ trung bình, thân dài đến khoảng 75 cm, đầu
**Gà lôi Beli** (Danh pháp khoa học: Lophura nycthemera beli) là một phân loài của loài gà lôi trắng. Phân loài này có mặt ở Việt Nam. ## Phân bố Nơi sống và sinh thái,
nhỏ|Một con công lục đang xòe đuôi **Công** hay còn gọi **cuông**, **nộc dung**, **khổng tước**, là tên gọi chung của ba loài chim trong chi _Pavo_ và _Afropavo_ trong phân loài **Pavoninae** của họ
**Bìm bịp gà lôi** (danh pháp hai phần: **_Centropus phasianinus_**) là một loài chim thuộc chi Bìm bịp, họ Cuculidae.. Loài này được tìm thấy ở Úc, Indonesia và Papua New Guinea. Môi trường sống
**Gà lôi nước** (**_Hydrophasianus chirurgus_**) là một loài chim trong họ Jacanidae. Loài chim này sinh sản ở Ấn Độ, và Đông Nam Á. Loài này ít di chuyển trong phạm vi của nó, nhưng
**Chim cưu** hay chim **dodo** (tên khoa học: _Raphus cucullatus_) hay là một loài chim không biết bay đặc hữu của đảo Mauritius (Mô-ri-xơ) ở phía đông Madagascar, Ấn Độ Dương. Dodo cùng với họ
**Gà lôi hông tía** (danh pháp hai phần: **_Lopura diardi_**) là một loài gà lôi thuộc chi Lophura, một chi động vật trong họ Trĩ (Phasianidae). Loài này phân bố ở Việt Nam, Lào, Thái
**Đạo luật Đảo Phân chim** (_Guano Islands Act_) là pháp chế liên bang được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua ngày 18 tháng 8 năm 1856 cho phép công dân Hoa Kỳ chiếm hữu các
**Lời nguyền của các Pharaon** là lời nguyền cho bất kỳ ai xâm phạm lăng mộ của người Ai Cập cổ đại, nhất là lăng mộ của các vị vua Ai Cập, các Pharaon, thì
thumb|Sự đa dạng của mỏ ở các loài chim khác nhau, tùy vào điều kiện môi trường và tập tính sống **Mỏ chim** (tiếng Anh: _beak_, _bill_, hay _rostrum_) là một bộ phận bên ngoài
nhỏ|phải|[[Đại bàng loài chim biểu tượng cho quyền lực và chúa tể bầu trời là đối tượng nuôi chim của nhiều người muốn thể hiện đẳng cấp]] **Nuôi chim săn** hay **thú chơi chim săn**
thumb|Gavia immer thumb|_Gavia immer_ **Chim lặn mỏ đen** hay **chim lặn lớn phương bắc** (danh pháp hai phần: **_Gavia immer_**), là một loài chim lặn lớn. ## Từ nguyên _Gavia_ là từ trong tiếng Latinh
thumb|_Tragopan satyra_ **Gà lôi Satyr**, tên khoa học **_Tragopan satyra_**, là một loài chim thuộc họ Trĩ. Loài này được tìm thấy ở trong Himalaya ở Ấn Độ, Tây Tạng, Nepal và Bhutan. Chúng cư
**Gà lôi mào lưng lửa**(danh pháp hai phần:**_Lophura ignita)_** là một loài chim trong họ Phasianidae.
phải|thumb|Vườn quốc gia Tràm Chim - một sân chim lớn bậc nhất đồng bằng sông Cửu Long. **Sân chim** hay **vườn chim**, **mảng chim**, **vườn cò**, là địa điểm quy tụ thường xuyên các loài
**Họ Chim nhiệt đới** (danh pháp khoa học: **_Phaethontidae_**) là một họ chim biển sinh sống ở vùng nhiệt đới. Họ này chỉ chứa 3 loài còn sinh tồn. Hiện tại, chúng được đặt trong
**Chim Toucan Swainson** hay còn gọi là **Chim Toucan mỏ đục** (Danh pháp khoa học: _Ramphastos ambiguus swainsonii_) là một phân loài của loài chim Toucan hàm đen (Ramphastos ambiguus). Tên khoa học tiếng Anh
nhỏ|phải|Bảo tồn loài hải âu biển [[Thalassarche melanophrys]] nhỏ|phải|Sự tuyệt chủng của loài chim sẻ Dusky ([[Ammodramus maritimus nigrescens) bên bờ biển là do mất môi trường sống.]] **Bảo tồn loài chim** (_Bird conservation_) là
nhỏ|phải|Một chú chim cánh cụt **Hình tượng chim cánh cụt** được phổ biến trên khắp thế giới bằng cơ thể ngộ nghĩnh, dễ thương, đáng yêu với dáng đi lạch bạch cùng khả năng bơi
Danh sách liệt kê các chi (sinh học) chim theo thứ tự bảng chữ cái như sau: ## A * _Abeillia abeillei_ * _Abroscopus_ * _Aburria aburri_ * _Acanthagenys rufogularis_ * _Acanthidops bairdi_ * _Acanthisitta
là một trong bốn tàu thuộc lớp tàu phóng lôi Chidori của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó bị lật trong một cơn bão vào ngày 12 tháng 3 năm 1934, ngay sau khi
thumb|Một nhóm xem chim với ống nhòm và kính viễn vọng **Ngắm chim** hay **xem chim**, là một hình thức quan sát động vật hoang dã chủ yếu qua quan sát chim tại môi trường
**Gà lôi lam đuôi trắng** (danh pháp khoa học: **_Lophura hatinhensis_**) là một loài gà lôi được phát hiện vào năm 1964 và đặt tên khoa học chính thức vào năm 1975. Gà lôi lam
nhỏ|Động cơ phản lực của [[VA-111 Shkval, đây là loại động cơ phản lực luồng có lượng thông qua lớn từ nước hút vào]] nhỏ|[[VA-111 Shkval Nga, đầu tạo siêu bọt.]] [[Tàu ngầm hạt nhân