✨Chiến tranh Ngàn ngày

Chiến tranh Ngàn ngày

Chiến tranh Ngàn ngày (1899–1902) () hay xung đột năm 1899 là một cuộc xung đột vũ trang dân sự quốc nội quan trọng ở Cộng hòa Colombia (lúc đó bao gồm cả tỉnh Panama) phát sinh 1.130 ngày từ ngày 17 tháng 10 năm 1899 đến ngày 21 tháng 11 năm 1902, giữa Đảng Tự do, Đảng Bảo thủ do Tổng thống Manuel Antonio Sanclemente lãnh đạo và các phe phái cực đoan. Vào năm 1899, người ta cáo buộc những người bảo thủ chấp chính duy trì chính quyền bằng cách sử dụng các trình tự bầu cử gian lận phi dân chủ. Giá cà phê quốc tế giảm làm tình hình kinh tế quốc nội trở nên tồi tệ hơn. Đảng Tự do và các đảng đối lập sau khi thất bại đã mất quyền lực đáng kể.. Đây là một cuộc chiến tranh bất thường giữa quân đội chính phủ được tổ chức tốt và một đội quân du kích tự do được đào tạo kém và vô chính phủ.

Cuộc xung đột kết thúc với kết quả Đảng Bảo thủ thắng lợi, kinh tế quốc gia bị tàn phá nặng nề, hơn một trăm ngàn người tử vong, Chính phủ Quốc gia tất yếu biến mất sau đó dẫn đến sự kiện quốc gia Panama ly khai (lúc đó là một phần của Địa khu Colombia), hoàn tất vào tháng 11 năm 1903. Đất nước thay đổi đột ngột do chính phủ phế trừ Hiến pháp Rionegro năm 1863 (củng cố mô thức liên bang) thay cho Hiến pháp năm 1886 mang tính trung ương tập quyền (do tổng thống Rafael Núñez ủy quyền và kiến lập), những người bảo thủ thông qua danh nghĩa của Marroquin cố gắng cưỡng chế bằng bạo lực. Đoạt quyền là nguyên nhân chủ yếu của chiến tranh.

Cuộc xung đột quốc tế mở rộng sang một phần sang các lân quốc như Ecuador và Venezuela, trong đó các trận chiến diễn ra giữa các lực lượng Colombia và Ecuador và/hoặc quân đội Venezuela (chắc là hỗ trợ lính Colombia cách tiến hành chiến đấu). Các quốc gia khác như Guatemala, El Salvador và Nicaragua ủng hộ phái Tự do chủ nghĩa và phái Bảo thủ bằng cách tiếp tế vũ khí và dụng phẩm. Hoa Kỳ cũng tham gia tác chiến tại Panama (một hạm đội Mỹ bảo chứng eo đất an toàn bằng điều ước Mallarino-Bidlack năm 1846).

Bối cảnh

Vào thế kỉ XIX Colombia đã diễn ra một số xung đột khu vực và nội chiến do sự khó khăn của nền kinh tế Colombia, ban đầu giữa những người Bolivari và Santander, dần phát triển thành xung đột giữa phái bảo thủ và tự do.

Đảng Tự do xác lập "Hiến pháp Rionegro" nhằm hóa cường quốc gia liên bang, các địa phương các bang có số quân lớn hơn nhiều so với quân đội chính phủ trung ương và có các quyền tuyên chiến với nhau, gây ra sự chia rẽ lớn trong các bang. Trong một xã hội bị nhấn chìm bởi thế cục địa khu phân tranh thì tổng thống Núñez tập hợp các nhà tự do độc lập (ôn hòa) và bảo thủ trong Quốc Dân đảng để khởi thảo Hiến pháp năm 1886, tương phản về mặt mục đích với hiến pháp trước đây, có dự định xây dựng một quốc gia trung ương đại cường.

Tòa Thánh soạn một bản hiệp ước ủng hộ "hiến pháp 1886", căn cứ theo hiệp ước thì Giáo hội Công giáo quản lý nền giáo dục Colombia, trong đó Giáo hội quyết định kiến lập chế độ kiểm duyệt tôn giáo hoặc chính trị trong nghiên cứu khóa bản ở trường. Tương tự như vậy, họ có quyền giám sát tất cả các cuộc hẹn của giáo viên, và họ cũng có quyền bách hại và truy phóng các nhà giáo dục không tuyên xưng đức tin Công giáo trong cơ cấu giáo dục toàn quốc. Các công chức tự do đã bị khai trừ như Lucas Caballero kể lại những ký giả và nhà phê bình chính -phủ bá quyền, như Ospina và Santiago Pérez, bị định tội hoặc bị phán xử lưu đày; tuy nhiên, giáo hội lại cho phép những người khác như Rafael Uribe Uribe và Marceliano Vélez phản đối. Đảng Tự do đã tuyên cáo một cuộc khởi nghĩa bạo động vào năm 1895 nhưng thất bại và òn củng cố quyền lực của phái bảo thủ, và thời điểm nổi trội và đầy xung đột này đã tạo ra những tranh luận giữa các ứng cử viên phái đối lập và chính phủ. Thương gia và doanh nhân phản đối chính phủ thời đó bị nhiễu càn và các hoạt động mậu dịch của họ bị gây trở ngại. Vào cuối thế kỷ 19, chỉ có một nghị sĩ tự do trong quốc hội Colombia.

Trước thềm chiến tranh, nhiều cánh chính trị hình thành trong Colombia: những người chính đảng dân tộc chủ nghĩa chấp chính độc quyền bài xích cao độ những người tự do, những người bảo thủ lịch sử - đồng chí của những người tự do, đương thời là một đoàn thể chính trị trọng yếu, cùng phản đối sự kiểm duyệt của các báo chí và hạn chế quyền lợi cá nhân, hiến pháp năm 1886 có một vài đoạn mang tính chủ nghĩa dân tộc. Về phần mình, đảng bảo thủ trì tục phản đối bất cứ điều gì khả dĩ chấp hành để đại diện cho chính phủ dân tộc chủ nghĩa; ví dụ, trong hiệp định ngày 3 ngày 17 tháng 8 năm 1899 tuyên bố: "1. Hiện tại đoàn đại biểu nước ta thừa nhận rằng, bây giờ liên tiếp không xuất hiện các vấn đề trọng yếu đặc biệt. Phản đối quan điểm Chính phủ kiến lập liên hệ chính trị với chủ nghĩa dân tộc, Đảng Bảo thủ và ngược lại. Các thành viên phái này phải bị tước trừ khỏi sự vụ công cộng một cách có hệ thống... 2. Tuyên ngôn bản giới Chính phủ và xu thế bất phù hợp lý niệm của đảng ta, khuynh hướng và nhiệt vọng của Đảng Bảo thủ ».

Sanclemente, do vấn đề sức khỏe, đã phải nhất thời ủy nhiệm cho Phó Tổng thống José Manuel Marroquín, những người phái bảo thủ lịch sử kể từ khi Marroquin thân họ đã ác dụng phách nhiếp. Chính phủ Marroquin chấn kinh, trong các vấn đề kinh tế, làm mọi người ngạc nhiên. Tự do vui mừng, quốc dân thất vọng. Marroquin công khai thủ tiêu chính sách bảo hộ chủ nghĩa theo phương pháp Tái sinh và khôi phục tự do mậu dịch. Caro tiên sinh sau đó đã gửi tối hậu thư tới Sanclemente, yêu cầu chiêm lĩnh. Người ta sơ kỳ thừa nhận quyền lực ác bá của Sanclemente vào ngày 1 tháng 11 năm 1898, sau đó kết thúc, bước vào thời kỳ 80 ngày chính quyền Marroquin trị vì

Phó Tổng thống Marroquin đã từ chức do bị Caro phê phán nặng nề vào ngày 20 tháng 9.

Phái lịch sử và tự do xúc tiến cải cách giao hoán xúc động nhằm khôi phục quốc gia chủ nghĩa thời kỳ Tái sinh, do đó các tập đoàn phản đối nhau. Bọn họ tranh cãi, khi bàn về trạng thái khái niệm Nhà nước, đảng Bảo thủ và đảng Tự do phản đối giả thiết của Quốc Dân đảng.

Dạo đầu

thumb|left|Địa khu Colombia vào cuối thế kỷ XIX.

Trong suốt thế kỷ XIX, Colombia là một quốc gia bất ổn định về chính trị, điều đó phát triển trở thành nguyên nhân chủ yếu của chiến tranh vào năm 1886. Đây là năm mà chính phủ áp chế hiến pháp năm 1863 và thay thế bằng một văn kiện bảo thủ và trung ương tập quyền hơn. Người ta phê bình Hiến pháp năm 1863 là kết quả của thái độ quá khích của phái liên bang chủ nghĩa trong thời kỳ mà những phần tử cấp tiến tự do chấp chính.

Với thời kỳ Regeneración (Phục hưng) đánh dấu bằng thời điểm ban bố hiến pháp chế định năm 1886, gây nên một sự thanh trừng tàn bạo chế độ tập trung trung ương chỉ có thể làm trầm trọng thêm các vấn đề chính trị. Chính phủ của một số địa khu sớm bắt đầu bất bình về những vấn đề này với chính quyền trung ương. Quyết sách chính trị kém cũng dẫn đến các vấn đề kinh tế. Lãnh tụ bản địa Victoriano Lorenzo tranh thủ đấu tranh kêu gọi chính quyền cho người Mỹ da đỏ địa quyền và quyền tự trị kinh tế, và sớm tiến hành đàm phán thành lập liên minh với phái Tự do chủ nghĩa.

thumb|Địa khu Colombia vào năm 1890.

Cuộc chiến khai thủy là kết quả của cuộc đối kháng giữa phái Tự do và phái Bảo thủ. Chính đảng Bảo thủ đã sử dụng các quy trình gian lận bất chính gạt bỏ những người tự do để duy trì quyền kế tục chấp chính, và điều này làm các phái đối lập đại phẫn nộ. Ngoài ra, Tổng thống Manuel Antonio Sanclemente bệnh càng nghiêm trọng, quá yếu ớt để thống lĩnh quốc gia dẫn đến khoảng trống quyền lực rộng lớn.

Sau khi Tổng thống Sanclemente thụ quyền cho Phó Tổng thống Marroquin thống lĩnh Colombia vì lý do sức khỏe, Phó tổng thống liền tiếp cận và vận động đối lập những người bảo thủ lịch sử của đảng Bảo thủ, làm cho họ mất ghế, đảm nhiệm tổng thống.

Khoảng trống quyền lực nhất thời này đã dẫn đến chiến tranh, bắt đầu bằng cuộc công kích vào thành phố Bucaramanga bởi những người tự do có tổ chức kém, nhằm kích động đối ứng của chính quyền trung ương. Phái Bảo thủ chấp chính đội quân quốc gia chính quy có tư trợ áp đảo phe tự do đấu tranh. Dù sau này phải vật lộn để chống việc những người chính quy xuất ngũ, ngoại trừ địa khu Santander và Panama, nơi họ duy trì quyền lực ở tiền tuyến rất dễ dàng.

Thời kỳ này là một thời kỳ phục hưng của một hiện tượng hòa giải chủng tộc với sự chứng thực của người da đen với những người tự do (lòng trung thành truyền thống bắt nguồn kể từ khi những người tự do phản chế độ nô lệ và phái bảo thủ ủng hộ chế độ nô lệ ở Colombia).

Chiến tranh

Sơ khởi, quân đội song phương tác chiến đại đội trong các trận chiến lớn, các chỉ huy của họ được gọi là Chỉ huy vị tha vì họ đối đãi tôn trọng với kẻ bại trận.

Tóm tắt giai đoạn đầu

Ngày dự định khai thủy cuộc nội chiến là ngày 20 tháng 10 năm 1899. Tuy nhiên, do một số tướng quân phái Tự do xác định thời điểm chín muồi của chiến tranh quá khinh suất, đặc biệt là Paolo Emilio Villar, người hi vọng bắt đầu cuộc chiến vào ngày 17 tháng 10, lịch đã bị cải biến một cách sỉ nhục. Những người Tự do phản ứng do dự bất quyết, vì họ tin rằng họ không có đủ số lượng hoặc sức mạnh. Mặc dù vậy, cuộc phản loạn bắt đầu ở thành phố Socorro, Santander, và phiến quân đang chờ tăng viện từ Venezuela.

Chính phủ pháí bảo thủ, tuy nhiên, đã không khoanh tay đứng nhìn khi tình huống phát sinh. Họ chuẩn bị phái quân đội đến Bucaramanga, thủ phủ của Santander. Tuy nhiên, lực lượng này không đến được vì quân đội cự tuyệt tiếp thụ thanh toán bằng "Môn phiếu", mà chính phủ phải sử dụng do tình hình kinh tế tồi tệ. Không ai mong đợi điều này, vì họ phỉ chuẩn bị tiến hành một cuộc chiến kéo dài ba năm và sẽ dẫn đến tai nạn cho đất nước. Dần dần, chiến tranh lan rộng khắp đất nước Colombia. thumb|left|Quân bảo thủ trong Thời kỳ Ngàn ngày. Những thất bại sơ kỳ đầu tiên của phái tự do xuất hiện rất sớm, với thắng lợi vi diệu của phái Bảo thủ trong chiến dịch sông Magdalena vào ngày 24 tháng 10. Tuy nhiên, phái Bảo thủ cũng ở trong một tình huống tế nhị. Đảng Bảo thủ phân liệt thành lưỡng phái Lịch sửQuốc dân, trong một nỗ lực cuồng nhiệt để thiết lập lại trật tự cho đất nước. Đầu tiên, họ giải nhiệm Tổng thống và thay thế ông bằng Jose Manuel Marroquin. Hồi ứng, đảng Tự do đề danh Gabriel Vargas Santos đam nhiệm tổng thống.

Các trận chiến của Peralonso và Palonegro ở Santander) gây ra tổn hại đáng kể. Tại Peralonso, phái Tự do đã giành được thắng lợi nhờ sự chỉ đạo của Rafael Uribe Uribe. Tại Palonegro (ngày 26 tháng 5 năm 1900), phái bảo thủ đã ngăn chặn thành công kẻ thù trong cuộc tao ngộ đẫm máu dị thường.

Nổi loạn ở Santander

Vào ngày 17 tháng 10 năm 1899, phái Tự do bạo động khắp toàn quốc, bắt đầu công kích trực diện, đô thị lẫn thôn trang, gây bất ngờ, chính phủ bất túc. Ngày hôm đó, Tướng Juan Francisco Gómez Pinzón phản ứng tán thành cuộc chiến tại nông trường La Pena, đương cục tự phân tự thân dẫn quân thượng thăng vận động giải phóng địa khu El Socorro và ở trận San Gil, hạ gục quân đội chính phủ do hạ đội trưởng Sanmiguel chỉ huy. Thế lực phản chính phủ tìm cách bạo động nhằm quản lý toàn thể địa khu Santander, tại Boyacá, Tolima và Magdalena đều có khởi nghĩa bột phát. Vì nguyên nhân này, chính phủ đã tuyên bố giới nghiêm toàn ngày 18 tháng 10.

Thế lực phản chính phủ bắt đầu thất bại vài ngày sau khi tham gia Chiến dịch Chủ giáo trên sông Magdalena vào ngày 24 tháng 10 khi phiến quân Santander cố gắng xác lập tiếp xúc với hải ngạn. Kết quả, hạm đội quân phản loạn bị tồi hủy. Tướng Duran tức tối, bất đắc phải hạn chế vi nhiễu lãnh thổ để tập hợp tàn quân, và dự định hành động, tiến hành tuần thị các tiểu đoàn Cazadores, Libres de Ocaña, Carmen de Santander, Córdoba và La Palma để chiến đấu với các chiến binh Peralonso (ngày 15 và 16 tháng 12 năm đó), Cáchira và Arboledas, vv. Các lực lượng phái tự do ở Tolima phải giản hóa tấn công du kích. Mặc dù trở ngại này, thế lực tự do chủ nghĩa ở Santander gồm 7.000 người đàn ông vẫn dứt điểm được trận chiến cuối tháng đó.

Bạo loạn ở Cauca

Vào cuối tháng 10 năm 1899, đội viên phái tự do tự thân tấn công du kích bạo phát ở tỉnh Cauca, chiếm Tumaco và ở Pamira vào tháng 11, phục kích kích bại. Thắng lợi của phiến quân Peralonso mang đến cho họ cơ hội mới và họ tân quy mộ tập những người đàn ông trong xã khu Cauca, và nhiều người tự do lưu vong ở Ecuador cũng quay trở lại. Phiến quân tổ chức tập kích Popayán vào ngày 25 tháng 12, bị kích bại ở nơi cách phía nam của thành thị hai mươi km (ở Flautas). Nhiều người chạy trốn trở lại địa vực Ecuador (do tổng thống ở đó - Eloy Alfaro theo phái tự do), vũ trang lại quân phản loạn,

Đương thởi chủ giáo Pasto, huynh đệ Ezequiel Moreno y Díaz sau đó viện trợ kinh tế cho lực lượng bảo thủ, là yếu tố quan trọng cho thắng lợi của chính phủ ở Nariño.

Phản loạn ở Panamá

thumb|[[Benjamín Herrera|Benxamin Êrêra, chỉ huy quân đội giải phóng ở Panama.]]

Sau diễn biến đó, quân Tự do chủ nghĩa, sau khi giành thắng lợi ở Peralonso, quyết định phát động một cuộc đột tập ở Panama, nơi họ rất dễ thành công do sự xa xôi của thủ khu này. Lãnh đạo cuộc bạo loạn là những người Tự do viễn ly ở Trung Mỹ, đặc biệt là Nicaragua, nơi tổng thống là ông Xôxề Santôs Selăgia hỗ trợ họ rất nhiều. Cuối cùng, những người lưu vong, do Belisario Porras tiên sinh lãnh đạo đã tập kích vào ngày 31 tháng 3 năm 1900 từ Punta Burica trong một con tàu trọng yếu chở đầy vũ khí và vật tư. Họ lên đường phụ cận David vào ngày 4 tháng Tư, nơi họ kích bại quân đương địa, tham gia cùng các nhà lãnh đạo với người của họ trong cuộc tuần hành ngay lập tức đến địa nguyên Panamá. Porras, sau khi nhận được sự giúp đỡ của Zelaya, tức thời truy phóng nhà chỉ đạo lưu vong Emiliano Herrera tham gia, người gốc địa khu Boyacá, mệnh danh chỉ huy quân đội. Phản loạn quân đã phạm sai lầm là không hành tiến tăng tốc độ của quân tiếp viện dưới sự chỉ huy của Tướng Víctor Salazar đến thủ phủ của địa khu được bảo vệ rất gian vi, nhưng sau đó bắt đầu được cường hóa. Phụ trách là thống đốc của địa khu, tổng đốc Carlos Albán.

Tuy nhiên, Albán, nhiệt vọng khai thủy chiến đấu càng sớm càng tốt, không chờ đợi quân đội chuẩn bị phòng ngự và phái khiển ba tiểu đoàn đến Capira để đãi thế lực phản chính phủ. Vào ngày 8 tháng 6, trận chiến đấu phát sinh và trong lần chạm trán đầu tiên, quân tự do chủ nghĩa bị kích bại; buộc phải rút lui, chính phủ quân truy cản họ, quân Tự do lợi dụng cơ hội hấp dẫn quân chính phủ tiến nhập địa hình khốn nan, sau đó phái Tự do tiến hành phản kích, hoàn toàn kích bại địch nhân (sau đó rút lui về thủ phủ địa khu).

Quân Tự do đường hoàng tiến đến La Chorrera, nơi họ bắt đầu xây các cơ sở hoạt động; thực hiện kế hoạch công kích cây cầu Calidonia buộc địch nhân tập trung ở nơi đó, rồi phiến quân khả dĩ tuyển trạch và công kích chỗ nhược tiểu nhất của địa phương. Tuy nhiên, Herrera quyết định khởi công cây cầu một mình với người của mình mà không chờ đợi Porras tăng viện để không phải bất đẳng với ông này.

Herrera tiên sinh tiến đến và nhận vị trí vào ngày 20 tháng 7 tại một thiết lộ trạm ở Corozal, Ngày hôm sau, Tổng đốc Albán đến với ba tiểu đoàn, một trận chiến trọng yếu diễn ra và lực lượng chính phủ một lần nữa tất yếu bị kích bại bởi thế lực phản chính phủ vinh quang và phải bí bách phản hồi Thành Panama. Herrera tiên sinh lợi dụng cơ hội lập tức tự mình bắt đầu đàm phán ép thành phố đầu tư. Sau đó, thành phố kinh hoảng thất thố, người ta sợ nó sẽ bị tẩy kiếp trong trận chiến, nhưng sau đó Tướng quân Salazar đã thuyết phục cấp trên của mình, Albán bất ứng nên đầu hàng, lựa chọn duy nhất của ông là chống cự.

Đội trinh thám Chính phủ phát hiện phi thuyền và hải thuyền tiếp cận bằng đường bộ và đường biển để tập kích. Đánh hơi được cuộc tái tấn công, Salazar cho quân canh giữ nghiêm ngặt nhiều vị trí. Ông không biết, cầu Calidonia dễ bị tấn công như thế nào, ông nghĩ tự vệ nó là lãng phí và quyết định nên phòng ngự với một vài người lính để hàng phục địch nhân. Khi Porras đến, Herrera trở lại thách thức anh ta và phản đối mệnh lệnh, tập kích các cứ điểm, dẫn đến một vụ đồ sát (24 tháng 7). Sau đó, một cuộc công kích vào ban đêm kết thúc kết thúc.

Vào ngày hôm sau, một lệnh ngừng bắn được thực hiện trong đó cả hai bên thu thập xác người tử vong và bị thương, lệnh ngừng bắn kết thúc lúc 4:00 chiều và thế lực phản chính phủ tiếp tục công kích, kết thúc trận chiến bằng một cuộc đại ngược sát nữaǃ. Các cuộc công kích kết thúc khi có mệnh lệnh về sự xuất hiện của quân chính phủ tăng viện từ Colón; các vụ nổ súng lẻ tẻ diễn ra nối tiếp nhau cho đến ngày hôm sau khi lực lượng của họ rút lui vào bên trong bán đảo Azuero, trốn trong rừng rậm. Trong khi đó, Thống đốc Albán quản lý Panama trong một thời gian ngắn để khôi phục lại quyền khống chế của mình trong toàn bộ địa khu.

Tấn công Santander

thumb|[[Rafael Uribe Uribe.]]

Sau khi chiến tranh tiến triển, hiện trạng đang chuyển biến rất tàn khốc bằng cách áp chế. Nhân dân phân liệt một cách cuồng tín về phương thức chiến tranh, bất chấp những nỗ lực của mỗi bên để có được những thắng lợi ở đô thị chỉ là ảo tưởng. Ở Santander, phái tự do trọng tổ lại và quyết định chiếm lĩnh các thành thị chiến lược Cúcuta và Bucaramanga; Tướng Herrera tiền hành tấn công chỉ huy của quân đội chính phủ ở quảng trường bằng một đội quân vĩ đại, tư lệnh Juan B. Tobar phân tán quân đội của mình và tăng cường năng lực phòng ngự thành phố. Các đội quân còn lại ở Cúcuta, do Đại tá Luis Morales Berti (cùng với năm trăm người trang bị tốt) chỉ huy đã đầu hàng vào ngày 1 tháng 11 năm 1899, thành phố trở thành căn cứ hoạt động chính của họ. Đảng Tự do quản lý thu thập khoảng 8000-10 000 người đàn ông có vũ trang (1500-2000 Bình nguyên được quản lý thu thập bởi Vargas Santos) để giải quyết việc tấn công chính phủ an toàn mà có thể có 8500 binh sĩ trong Boyacá chuẩn bị tấn công. Tuy nhiên, những con số này, đối với các thế lực phái tự do lúc này hiện đang tuyển hơn 3500 quân, nhiều người bị cự tuyệt, chỉ có vũ trang khảm đao; ở phương diện khác, bộ đội chính phủ hành quân chống lại họ đạt 10 000 quân. Quân Uribe Uribe, đồng thời, công kích Bucaramanga vào ngày 11 Tháng Mười Một, thành phố do tướng Vicente Villamizar phòng ngự, kết quả là quân Vicente thành công và, sau hai ngày chiến đấu ác liệt, buộc địch phải rút lui. Uribe Uribe chiếm Durán và phái khoảng 2.000 người đàn ông tiến công Herrera bắt đầu sau đó là một cuộc tấn công nội địa đại quy mô. Tuy nhiên, thất bại này đã khiến ông mất xưng hào Tổng chỉ huy thế lực phái Tự do, cấp bậc mà ông nhận được vào ngày 12 cùng tháng, vì nhiều người đã bị loại khỏi chiến trường khi binh sĩ của ông tiếp tục tấn công.

Trong trận Peralonso, Uribe Uribe kích bại Villamizar và vượt sông Peralonso, đặt mục tiêu chiếm Pamplona vào ngày 24, gia nhập với quân Tự do, Tướng Vargas Santos ở llaneros vào ngày hôm sau; Vargas được bổ nhiệm làm Tổng thống lâm thời Cộng hòa để thống nhất bộ chỉ huy quân tự do chiến đấu. Vargas là một nhà lãnh đạo chiến đấu kỳ cựu của một số cuộc nổi loạn, lãnh đạo Casanare và được tiếp đón bởi sự nhiệt tình của các lực lượng Tự do tuyệt vọng, hơn 12 000 người. Thật không may, mặc dù có uy tín là người lãnh đạo cuộc nổi dậy của phái tự do trước đó, ông thiếu tài năng quân sự, và cũng cố gắng tiêu diệt quân đội của Uribe Uribe, một đối thủ mạnh mẽ và cố gắng giảm ảnh hưởng của ông về mặt chính trị, góp phần chia rẽ lực lượng của anh ta. Người Tự do cuối cùng đã đưa ra một quyết định quan trọng hơn trong chiến tranh giữa Vargas Santos và Herrera chống lại Uribe Uribe hơn là cuộc đấu tranh chung chống lại chính phủ quốc gia. Vì điều này, Uribe Uribe quyết định tiếp tục cuộc tuần hành nhằm lợi dụng việc chính phủ bị phân tâm bởi cuộc nổi dậy ở Antioquia vào ngày 1 tháng 1 năm 1900. (con số thực có lẽ khiêm tốn hơn).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh Ngàn ngày** (1899–1902) () hay **xung đột năm 1899** là một cuộc xung đột vũ trang dân sự quốc nội quan trọng ở Cộng hòa Colombia (lúc đó bao gồm cả tỉnh Panama)
**Chiến tranh sáu ngày** (tiếng Ả Rập: حرب الأيام الستة, _ħarb al‑ayyam as‑sitta_; tiếng Hebrew: מלחמת ששת הימים, _Milhemet Sheshet Ha‑Yamim_), cũng gọi là **Chiến tranh Ả Rập-Israel**, **Chiến tranh Ả Rập-Israel thứ ba**, **an‑Naksah
phải|Bản đồ Thế giới năm 1962 với các phe liên kết **Chiến tranh Lạnh (1953–1962)** là một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ khi lãnh tụ Liên Xô Joseph Stalin qua đời năm
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Cuộc chiến Yom Kippur**, **Chiến tranh Ramadan** hay **Cuộc chiến tháng 10** (; chuyển tự: _Milkhemet Yom HaKipurim_ or מלחמת יום כיפור, _Milkhemet Yom Kipur_; ; chuyển tự: _harb 'uktubar_ hoặc حرب تشرين, _ħarb Tishrin_),
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
**Chiến tranh Iran – Iraq**, hay còn được biết đến với những tên gọi **Chiến tranh xâm lược của Iraq** (جنگ تحمیلی, _Jang-e-tahmīlī_), **Cuộc phòng thủ thần thánh** (دفاع مقدس, _Defa-e-moghaddas_) và **Chiến tranh Cách
## Thập niên 1940 ### 1945 *Hội nghị Yalta *Hội nghị Potsdam ### 1946 * Tháng 1: Nội chiến Trung Quốc tái diễn giữa hai thế lực của Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng.
Bản đồ thế giới năm 1980 với các liên minh Bài **Chiến tranh Lạnh (1962-1979)** nói về một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ sau cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba cuối tháng
**Chiến tranh Đại liên minh** (1688-1697) - thường được gọi là **chiến tranh chín năm**, cuộc **chiến tranh Kế vị Palatine**, hoặc **chiến tranh của Liên minh Augsburg** - là một cuộc chiến lớn cuối
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân Đồng Minh đã phạm phải tội ác chiến tranh đã được kiểm chứng và vi phạm luật pháp chiến tranh chống lại dân thường hoặc quân nhân
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Chiến tranh Trăm Năm** là cuộc chiến tranh giữa Anh và Pháp kéo dài từ năm 1337 đến năm 1453 nhằm giành giật lãnh thổ và ngôi vua Pháp. Hai phe chính tham gia vào
**Chiến tranh giải phóng Bangladesh** ( _Muktijuddho_) diễn ra tại Nam Á vào năm 1971, dẫn đến việc thành lập nước Cộng hòa Bangladesh. Chiến tranh là cuộc đọ sức của Đông Pakistan (sau đó
**Chiến tranh Mùa đông** (, , ) hay **Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan 1939-1940** là cuộc chiến giữa Liên Xô và Phần Lan do tranh chấp lãnh thổ tại vùng Karelia. Nó diễn ra vào
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Chiến tranh Anh–Zanzibar** () diễn ra giữa Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland với Vương quốc Zanzibar vào ngày 27 tháng 8 năm 1896. Xung đột kéo dài trong khoảng 38 đến 45 phút
thumb|Các thi thể trong trang phục dân sự, được Ukraine tuyên bố là bị bắn bởi binh sĩ Nga, nằm trên một con phố ở Bucha. Tay của một trong số họ bị trói sau
**Chiến tranh Bảy Ngày** là một cuộc xô xát vùng phía nam thành phố Pietermaritzburg ở Nam Phi. Trong 7 ngày, từ 25 tháng 3 đến 31 tháng 3 năm 1990, hàng ngàn người có
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
**Chiến tranh Lạnh** (1947-1991, tiếng Anh: **Cold War**) là chỉ đến sự căng thẳng địa chính trị và xung đột ý thức hệ đỉnh điểm giữa hai siêu cường (đứng đầu và đại diện hai
**Chiến tranh Ả Rập – Israel năm 1948**, được người Do Thái gọi là **Chiến tranh giành độc lập** và **Chiến tranh giải phóng**, còn người Palestine gọi là **al Nakba** (tiếng Ả Rập: النكبة,
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
**Chiến tranh Cách mạng Mỹ** (1775 - 1783), còn được gọi là **Chiến tranh giành độc lập Mỹ**, là một cuộc chiến vào thế kỷ 18 giữa Vương quốc Đại Anh và Mười ba xứ
**Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc**, hay thường được biết đến với cái tên **Chiến tranh năm 1812**, là một cuộc chiến giữa các lực lượng quân đội Hoa Kỳ và quân đội Đế
**Chiến tranh đảo Crete** (, ), còn được gọi là **Chiến tranh Candia** () hay **Chiến tranh Ottoman–Venezia lần thứ năm**, là một cuộc xung đột kéo dài từ năm 1645 đến năm 1669 giữa
**Chiến tranh Triều Tiên** là cuộc chiến xảy ra trên bán đảo Triều Tiên giữa Bắc Triều Tiên (với sự hỗ trợ của Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa) và
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Chiến tranh biên giới 1979**, hay thường được gọi là **Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979**, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra
**Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia**, hay còn được gọi là **Chiến tranh biên giới Tây Nam**; , UNGEGN: _Sângkréam Kâmpŭchéa-Viĕtnam_; Những người theo chủ nghĩa dân tộc Khmer gọi là **Việt
**Chiến tranh Nhật - Thanh** (cách gọi Nhật Bản, ), hay **chiến tranh Giáp Ngọ** (cách gọi Trung Quốc, ) là một cuộc chiến tranh giữa đế quốc Đại Thanh và đế quốc Nhật Bản
**Chiến tranh Thái Bình Dương** là một phần của Chiến tranh thế giới lần thứ hai diễn ra trên Thái Bình Dương, các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương và vùng Đông Á, Đông Nam
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Chiến tranh Trung – Nhật** (1937–1945) là một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Hoa Dân Quốc và Đế quốc Nhật Bản. Hai thế lực đã chiến đấu với nhau ở vùng biên giới
**Việt Nam hóa chiến tranh** (tiếng Anh: _Vietnamization_) hay **Đông Dương hóa chiến tranh** là chiến lược của Chính phủ Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Richard Nixon trong Chiến tranh Việt Nam, được áp
**Chiến tranh Hoa Hồng** là một loạt các cuộc nội chiến tranh giành vương vị nước Anh giữa những người ủng hộ hai dòng họ Lancaster và York. Cuộc chiến diễn ra trong các giai
**Chiến tranh nhân dân** là chiến lược quân sự tại Việt Nam để chỉ chung các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc do nhân dân Việt Nam tiến hành
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và
upright|Một kỵ sĩ trên lưng ngựa nhỏ|phải|Một con ngựa kéo hạng nặng, có thể dùng để tải pháo **Ngựa** là động vật được sử dụng nhiều nhất trong cuộc chiến, nhất là chiến tranh thời
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Chiến tranh Pháp – Thanh** là cuộc chiến giữa Đệ tam Cộng hòa Pháp và Đế quốc Đại Thanh, diễn ra từ tháng 9 năm 1884 tới tháng 6 năm 1885. Cuộc chiến nổ ra
**Chiến tranh Trung–Ấn** (戰爭中印; Hindi: भारत-चीन युद्ध _Bhārat-Chīn Yuddh_), còn được gọi là **Xung đột biên giới Trung–Ấn**, là một cuộc chiến tranh giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Ấn Độ. Nguyên nhân
**Chiến tranh Punic lần thứ nhất **(264-241 TCN) là cuộc chiến tranh lớn đầu tiên xảy ra giữa Carthage và Cộng hòa La Mã, kéo dài suốt 23 năm giữa hai thế lực hùng mạnh
**Chiến tranh Bosnia** hay **Chiến tranh ở Bosnia và Hercegovina** là một cuộc xung đột vũ trang quốc tế xảy ra ở Bosna và Hercegovina trong khoảng thời gian giữa tháng 4 năm 1992 và
**Chiến tranh Lạnh (1947–1953)** là một giai đoạn của cuộc Chiến tranh Lạnh từ học thuyết Truman năm 1947 tới cuộc Chiến tranh Triều Tiên năm 1953. Chiến tranh Lạnh bắt đầu ngay sau Thế
**Chiến tranh Nam Ossetia 2008** khởi đầu ngày 7 tháng 8 năm 2008 và các bên tham chiến gồm Gruzia, Nga, Nam Ossetia và Abkhazia. ## 8-9 tháng 8 Ngày 8 tháng 8, Gruzia, một
Cuộc **Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư** là một bộ phận quan trọng của Mặt trận phía đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Cuộc chiến bắt đầu từ
**Chiến tranh Punic lần thứ hai**, cũng còn được gọi là **Chiến tranh Hannibal**, (bởi những người La Mã) **Cuộc chiến tranh chống lại Hannibal**, hoặc **Chiến tranh Carthage**, kéo dài từ năm 218 đến
nhỏ|phải|Một [[chiến binh Mông Cổ trên lưng ngựa, ngựa Mông Cổ là biểu tượng cho những con ngựa chiến ở vùng Đông Á trong thời Trung Cổ]] nhỏ|phải|Một kỵ xạ Nhật Bản đang phi nước