✨Chiến tranh Mithridates lần thứ ba

Chiến tranh Mithridates lần thứ ba

Chiến tranh Mithridatic lần III (73-63 TCN) là cuộc chiến tranh cuối cùng và dài nhất trong chiến tranh Mithridatic, nổ ra giữa Mithridates VI của Pontus và đồng minh của ông với người La Mã. Kết thúc chiến tranh là thất bại của Mithridates và kết thúc mối đe dọa từ vương quốc Pontus, còn Vương quốc Armenia trở thành chư hầu của La Mã. Ngoài ra, nhà nước tàn dư Seleucid (lúc này chỉ còn kiểm soát Syria) cũng bị tiêu diệt theo.

Trước chiến tranh

Chi tiết về thời kỳ giữa hai cuộc chiến thứ hai và thứ ba có thể xem trong trang "Vương quốc Pontos", đặc biệt là việc chiến tranh phát triển qua các cuộc chiến, từ Chiến tranh Mithridaric lần thứ nhất cho đến mối liên minh giữa Mithridates VI và Sertorius, đưa hai kẻ thù của người La Mã lúc này trở thành một và do đó trở thành một mối đe dọa nghiêm trọng nếu không muốn nói là có thể làm đảo ngược sức mạnh của người La Mã lúc bấy giờ. Còn nguyên nhân trực tiếp khiến cho chiến tranh bùng nổ là việc Nicomedes IV xứ Bithynia mất năm 74 trước Công nguyên, và thay vì được sát nhập thành một tỉnh của người La Mã theo như nguyện vọng của vị vua thì Mithridates xứ Pontus lại xua quân tấn công vương quốc này, đo đó phá vỡ kế hoạch ban đầu của phía La Mã.

Lực lượng và kế hoạch triển khai quân lính sơ bộ, 74–73 BC

Diễn ra cùng thời điểm với với cuộc khởi nghĩa của Sertorius ở xứ Hispania, Mithridates tiến quân với rất ít sự chống cự từ phía La Mã. Viện Nguyên lão đáp lại bằng việc cử các chấp chính quan là Lucius Licinius Lucullus và Marcus Aurelius Cotta nhằm đối phó với mối đe dọa từ Pontus này. Lucullus được cử đi quản lý xứ Cicilia và Cotta thì là Bithynia.Khi tiến về xứ Bithynia, Lucullus có trong tay hơn 30,000 bộ binh cùng 1,600-2,500 kỵ binh trong khi đối thủ Mithridates của ông có thể có tới 300,000 quân, theo Appian và Plutarch.

Kế hoạch ban đầu của là Cotta sẽ cầm chân lực lượng hải quân của phía Pontus, trong khi Lucullus sẽ hành tiến ở trên đất liền. Theo đó Cotta lệnh cho hải quân ông neo giữ tại Chalcedon, còn Lucullus thì cầm quân tiến qua xứ Phrygia với ý định xâm lược vương quốc Pontus. Tuy nhiên, trước khi Lucullus kịp tiến quân tới thì Mithridates đã đánh bại Cotta trong trân Chaledon và buộc ông này phải rút lui về phía sau các bức tường thành của thành phố. 64 tàu chiến bị phá hủy và cùng với đó là 3000 quân thiệt mạng buộc Cotta phải nán lại cho đến khi quân cứu viện của Lucullus tới nơi.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh Mithridatic lần III** (73-63 TCN) là cuộc chiến tranh cuối cùng và dài nhất trong chiến tranh Mithridatic, nổ ra giữa Mithridates VI của Pontus và đồng minh của ông với người La
**Chiến tranh Mithridatic lần I**89-85 TCN) là một cuộc xung đột xảy ra giữa vương quốc Pontus và sự nổi loạn của các thành phố Hy Lạp-nổi bật trong đó là sự tham gia của
**Mithradates VI** (tiếng Hy Lạp: **Μιθριδάτης**, tiếng Ba Tư cổ: **Mithradatha**, "_Món quà của Mithra_") (134 TCN – 63 TCN), còn được biết đến như là **Mithradates Vĩ đại** (Megas) và Eupator Dionysius, là vua
**Các cuộc chiến tranh La Mã – Parthia** (Từ năm 66 TCN – 217) là một loạt các cuộc xung đột giữa đế quốc Parthia với người La Mã. Đây là chuỗi các cuộc xung
_Để tìm hiểu về một trận đánh trước đó, xem bài Trận Chaeronea (338 TCN)_ **Trận Chaeronea** là chiến thắng của quân La Mã do quan Tổng tài Lucius Cornelius Sulla chỉ huy trước vua
**Chiến tranh La Mã – Parthia từ năm 58 tới năm 63**, hay còn được gọi là **Chiến tranh kế vị Armenia**, là cuộc chiến tranh xảy ra giữa Đế quốc La Mã và đế
**Vương quốc Pontos** hay ** đế quốc Pontos** là một vương quốc Hy Lạp hóa nằm ở phía nam biển Đen. Xứ này được Mithridates I thành lập bởi năm 291 TCN và tồn tại
nhỏ|Tượng terracotta của Mithridates V tại Viện bảo tàng Louvre, Paris **Mithridates V Euergetes** (tiếng Hy Lạp: Μιθριδάτης ὁ εὐεργέτης, có nghĩa là "Mithridates người bảo trợ", trị vì khoảng năm 150-120 TCN.), Vị vua
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
**Cappadocia** là một tỉnh của đế quốc La Mã ở Tiểu Á (ngày nay là khu vực trung đông Thổ Nhĩ Kỳ), với thủ phủ của nó là Caesarea. Nó được Hoàng đế Tiberius (trị
**Pharnaces II **(trong tiếng Hy Lạp Φαρνάκης, mất năm 47 TCN) là vua của Pontus cho đến khi ông qua đời. Ông là con trai của đại đế Mithridates VI, một kẻ thù nổi tiếng
nhỏ|_Spartacus_ by [[Denis Foyatier, 1830]] **Spartacus** (; sinh năm 111 tr.CN - 71 trước CN), theo các sử học gia, là một đấu sĩ nô lệ, người đã trở thành một trong các thủ lĩnh
**Nicomedes IV Philopator**, là vua của Bithynia, từ khoảng năm 94 trước Công nguyên đến năm 74 trước Công nguyên. Ông là con trai cả và người kế vị của vua Nicomedes III của Bithynia
**Palestine** ( , hoặc ; tiếng Hebrew: פלשתינה _Palestina_) là một khu vực địa lý tại Tây Á, nằm giữa Địa Trung Hải và sông Jordan. Đôi khi nó được cho là bao gồm các
Bản đồ của đế quốc La Mã vào năm 125 SCN, dưới triều đại của hoàng đế [[Hadrian, cho thấy **Legio XXII Deiotariana**, đóng quân tại Alexandria (Alexandria, Ai Cập), thuộc tỉnh Aegyptus, từ năm
**Lịch sử Palestine** là một lĩnh vực nghiên cứu về quá khứ trong khu vực của Palestine, nói chung được xác định là một khu vực địa lý ở Nam Levant giữa Biển Địa Trung
**Ariobarzanes I**, tên là **Philoromaios** (tiếng Hy Lạp: Ἀριοβαρζάνης Φιλορώμαιος, Ariobarzánēs Philorṓmaios, người tình của Roma), là vua của Cappadocia từ năm 95 TCN đến khoảng 63 TCN-62 TCN. Ariobarzanes I là một nhà quý
**Trận Tigranocerta** (Tiếng Armenian: Տիգրանակերտի ճակատամարտը, Tigranakerti Tchakatamartuh) là một trân đánh quân sự nổ ra vào ngày 6 tháng 10 năm 69 TCN giữa quân đội của Cộng hòa La Mã và quân đội
**Vương quốc Hy Lạp-Bactria** cùng với vương quốc Ấn-Hy Lạp là các vương quốc nằm ở cực đông của thế giới Hy Lạp hóa, vương quốc này tồn tại từ năm 256 cho tới năm
**Người Ba Tư** là một dân tộc thuộc nhóm người Iran, những người nói tiếng Ba Tư hiện đại và có liên quan chặt chẽ về ngôn ngữ lẫn sắc tộc với người Iran địa
**Delos** (; ; Attic: , Doric: ) là một hòn đảo nằm ở trung tâm của quần đảo Cyclades gần Mykonos thuộc vùng Nam Aegea của Hy Lạp. Đây là một trong những địa điểm
**Dromichaetes** (tiếng Hy Lạp cổ đại: Δρομιχαίτης, Dromichaites) là vua của người Getae ở cả hai bên bờ của hạ lưu sông Danube (ngày nay là Romania và Bulgaria) khoảng năm 300 trước Công nguyên.
**Gaius Julius Caesar** viết theo người La Mã là **Gaivs Ivlivs Caesar** (; 12 tháng 7 năm 100 TCN – 15 tháng 3 năm 44 TCN) là một vị tướng và chính khách người La
**Ephesus** (; Đền này có thể đã được xây dựng lại hoặc sửa chữa, nhưng điều này không chắc chắn, vì lịch sử sau đó của nó không được rõ ràng. Hoàng đế Constantinus Đại
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
Trong bối cảnh của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại, kiến ​​trúc, và văn hóa, **Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa** tương ứng với khoảng thời gian giữa cái chết của Alexandros Đại đế
**Antiochos II Theos** (tiếng Hy Lạp: **Αντίοχος Β' Θεός**, 286 TCN – 246 TCN) là vị vua thứ ba của vương quốc Seleukos thời Hy Lạp hóa, cai trị từ năm 261 đến năm 246
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Praetorians** (tạm dịch: _Vệ binh hoàng gia_) là trò chơi máy tính chiến thuật thời gian thực do hãng Pyro Studios phát triển và Eidos Interactive phát hành vào ngày 28 tháng 2 năm 2003
thumb|Các khu định cư cổ đại tại Krym và khu vực xung quanh thumb|Đồng xu từ [[Chersonesus biểu thị Artemis, hươu, bò, dùi cui và bao đựng tên ()]] Lịch sử thành văn của bán
phải|nhỏ| Bản đồ cho thấy phạm vi của Lưỡng Hà Lịch sử của **Lưỡng Hà** (**Mesopotamia**) trải dài từ khi bắt đầu có người định cư trong thời kỳ Hạ Sumaya cho đến thời cổ
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Marcus Antonius **(trong tiếng Latin: M·ANTONIVS·M·F·M·N) (khoảng 14 tháng 1 năm 83 TCN - 1 tháng 8 năm 30 TCN) được biết đến trong tiếng Anh là **Mark Antony**, là một chính trị gia và
**Gaius Julius Caesar** là tên được dùng cho các thành viên nam của gia đình Julii Caesares thị tộc Julia. Đây là tên ba phần (_tria nomina_) của quan độc tài La Mã Julius Caesar,
**Cleopatra VII Thea Philopator** (; 70/69 TCN10 tháng 8 năm 30 TCN) là nhà cai trị thực sự cuối cùng của Vương triều Ptolemaios thuộc Ai Cập, mặc dù trên danh nghĩa thì vị pharaon cuối
**Cleopatra Selene** (; – 69 TCN) là nữ hoàng của Syria với tên gọi là **Cleopatra II Selene** (82–69 TCN). Bà là con gái của Ptolemaios VIII của Ai Cập với Cleopatra III. Năm 115
**Người Ấn-Scythia** là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ người Saka (hoặc Scythia), những người đã di cư vào Bactria, Sogdiana, Arachosia, Gandhara, Kashmir, Punjab, Gujarat, Maharashtra và Rajasthan, từ giữa thế kỷ
**Đế quốc Tân Babylon**, còn được gọi là **Đế chế Babylon thứ hai** và thường được các nhà sử học nhắc đến là **Đế chế Chaldea**, là đế quốc Lưỡng Hà lớn cuối cùng được
**Người Scythia** hay **người Scyth** là một dân tộc Iran bao gồm những người chăn thả gia súc, sống du mục, cưỡi ngựa đã thống trị vùng thảo nguyên Hắc Hải trong suốt thời kỳ
[[Vương quốc Armenia dưới thời nhà Orontes]] **Nhà Orontes** (tiếng Armenia: Երվանդունիների հարստություն (Yervandownineri harstowt'yown), hoặc, được gọi bằng tên gốc của họ, Yervanduni) là triều đại đầu tiên của Armenia. Nhà Orontes thiết lập
**Văn minh cổ Babylon** hay **Babylonia** () là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad và là một vùng văn hóa có trung tâm tại trung-nam Lưỡng Hà (nay là Iraq và Syria). Ban
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
upright=1.2|nhỏ|Năm bước trong quá trình làm giấy, được [[Thái Luân phát minh vào năm 105, thời Đông Hán]] Triều đại nhà Hán (206 TCN - 220) thời cổ Trung Hoa, chia ra làm hai giai
**Antiochos X Eusebes Philopator** (tiếng Hy Lạp: , _Antíochos Efsevís Filopátor_; –92 hoặc 88 TCN) là một vị vua của nhà Seleukos đã cai trị Syria thời kỳ Hy Lạp hóa từ khoảng năm 95