✨Chiến dịch Bó đuốc

Chiến dịch Bó đuốc

Chiến dịch Bó đuốc (Operation Torch, lúc đầu được đặt tên Chiến dịch Gymnast) là cuộc tấn công của liên minh Hoa Kỳ–Anh lên lãnh thổ Bắc Phi thuộc Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch này bắt đầu ngày 8 tháng 11 năm 1942 và là một phần của Mặt trận Bắc Phi.

Phía Liên Xô đã nhiều lần yêu cầu Hoa Kỳ và Anh phải bắt đầu hành động tại châu Âu và tiến hành mở một mặt trận thứ hai nhằm chia sẻ gánh nặng với Hồng quân Liên Xô trong cuộc chiến với quân đội Đức Quốc xã. Trong khi các viên tư lệnh Hoa Kỳ ủng hộ Chiến dịch Sledgehammer nhằm đổ bộ trực tiếp lên lục địa châu Âu đang bị chiếm đóng, thì bộ chỉ huy Anh lại tin rằng cách làm đó sẽ kết thúc trong thảm họa. Thay vào đó, họ đề xuất một cuộc tấn công lên phần lãnh thổ của Pháp tại Bắc Phi, để quét sạch các lực lượng Phe Trục ra khỏi Bắc Phi, tăng cường khả năng kiểm soát trên biển Địa Trung Hải và chuẩn bị cho một cuộc đổ bộ vào miền Nam Pháp trong năm 1943. Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt nghi ngờ rằng những hoạt động tại châu Phi sẽ làm làm ảnh hưởng đến khả năng tiến công châu Âu trong năm 1943 nhưng vẫn nhất trí ủng hộ Thủ tướng Anh Winston Churchill.

Bối cảnh

Đường di chuyển của các đoàn tàu vận tải chuẩn bị phục vụ cho chiến dịch tấn công

Phe Đồng minh đã lên kế hoạch cho một cuộc tiến công của liên quân Anh-Mỹ vào Bắc Phi/Maghreb của Pháp — Maroc, Algeria và Tunisia, lãnh thổ thuộc về chính phủ Vichy Pháp trên danh nghĩa. Với việc quân Anh tiến từ Ai Cập, phe Đồng minh có thể thực hiện một chiến dịch gọng kìm bao vây phe Trục ở Bắc Phi. Quân Pháp Vichy có khoảng 125.000 binh sĩ trong các vùng lãnh thổ cũng như pháo binh ven biển, 210 xe tăng còn hoạt động nhưng đã lỗi thời và khoảng 500 máy bay, một nửa trong số đó là máy bay chiến đấu Dewoitine D.520 với sức mạnh ngang tầm nhiều máy bay chiến đấu của Anh và Mỹ. Các lực lượng này đã được chia ra bao gồm 60.000 quân ở Maroc, 15.000 ở Tunisia, và 50.000 ở nlgeria, với pháo bờ biển, cùng một số lượng nhỏ xe tăng và máy bay. Ngoài ra, có khoảng 10 tàu chiến và 11 tàu ngầm tại Casablanca.

Nguyên nhân chính trị

Đồng minh tin rằng những người lính Pháp Vichy sẽ không kháng cự, một phần dựa vào thông tin cung cấp bởi lãnh sự Mĩ Robert Daniel Murphy ở Algiers. Những người Pháp là thành viên cũ của phe Đồng minh nên quân đội Mĩ đã ra chỉ thị cấm nổ súng trừ khi họ bị bắn trước. Tuy nhiên, họ vẫn lo sợ về việc quân Pháp sẽ có ác cảm với các hành động của người Anh vào tháng 6 năm 1940 để ngăn Đức chiếm được các tàu chiến của Pháp. Cuộc tấn công vào cảng Mers-el-Kébir đã giết khoảng 1300 thủy thủ Pháp.

Việc đánh giá thiện cảm của quân Pháp là rất quan trọng và các kế hoạch đã được thực hiện để đảm bảo sự hợp tác của họ thay vì kháng cự. Sự hỗ trợ của quân Đức cho Pháp chủ yếu là bằng không quân. Rất nhiều máy bay ném bom của Luftwaffe đã đã thực hiện các cuộc tấn công nhằm chống viện trợ của Đồng minh đến Bắc Phi vào các cảng của Đồng minh ở Algiers và dọc theo bờ biển Bắc Phi.

Chỉ huy chiến dịch

Trung tướng Dwight D. Eisenhower được giao quyền chỉ huy chiến dịch, đặt trụ sở chính tại Gibraltar. Tư lệnh Hải quân Đồng minh của Lực lượng Viễn chinh là Đô đốc Sir Andrew Cunningham; cùng với Phó đô đốc Sir Bertram Ramsay, người đã lên kế hoạch cho cuộc đổ bộ

Tranh cãi chiến lược

Những người chỉ huy lâu năm của Mĩ vẫn kịch liệt phản đối, và sau khi Bộ chỉ huy tối cao liên quân Anh-Mĩ họp tại London vào ngày 30 tháng 7 năm 1942, tướng George Marshall và đô đốc Ernest King từ chối thông qua kế hoạch. Marshall và các tướng Mĩ khác ủng hộ cuộc đổ bộ vào phía Bắc Âu cuối năm, nhưng phía Anh đã từ chối. Sau khi thủ tướng Winston Churchill thúc giục về 1 cuộc đổ bộ vào Bắc Phi thuộc Pháp năm 1942, Marshall gợi ý cho tổng thống Franklin D. Roosevelt về việc hủy bỏ chiến lược ưu tiên Đức Quốc Xã và tập trung vào mặt trận Thái Bình Dương. Roosevelt nói rằng nó sẽ không thể giúp được cho Liên Xô. Với việc Marshall thất bại trong việc thuyết phục người Anh thay đổi ý kiến của họ, Roosevelt đưa ra yêu cầu trực tiếp rằng Chiến dịch Bó đuốc phải được ưu tiên hơn các hoạt động khác và cần được thi hành sớm nhất có thể, đây là một trong hai mệnh lệnh trực tiếp từ Roosevelt đến các tướng lĩnh trong cuộc chiến.

Khi tiến hành kế hoạch của mình, các nhà chiến lược quân sự của Đồng minh cần phải xem xét tình hình chính trị trên thực địa ở Bắc Phi, vốn rất phức tạp, cũng như các khía cạnh chính trị ngoại giao bên ngoài. Người Mỹ đã công nhận Pétain và chính phủ Vichy vào năm 1940, trong khi người Anh thì không và thay vào đó đã công nhận chính phủ Pháp lưu vong Tự do của Tướng de Gaulle, và đồng ý tài trợ cho họ. Bắc Phi là một phần của hệ thống thuộc địa của Pháp và trên danh nghĩa là ủng hộ Vichy, nhưng sự ủng hộ đó không phổ biến trong dân chúng.

Các sự kiện chính trị trên thực địa đã góp phần vào, và trong một số trường hợp, thậm chí còn quan trọng hơn mặt quân sự. Dân số Pháp ở Bắc Phi được chia thành ba nhóm:

Những người GaullistCharles de Gaulle là người tập hợp Ủy ban Quốc gia Pháp, tổ chức này bao gồm những người tị nạn Pháp trốn thoát khỏi vùng đô thị của Pháp thay vì khuất phục trước quân Đức, hoặc những người ở lại và tham gia Kháng chiến. Một tướng lĩnh, Leclerc, đã tổ chức một lực lượng chiến đấu và tiến hành các cuộc đột kích vào năm 1943 dọc theo con đường 1.600 dặm (2.600 km) từ Hồ Chad đến Tripoli và gia nhập với Tập đoàn quân 8 của Tướng Montgomery vào ngày 25 tháng 1 năm 1943.

Phong trào giải phóng PhápMột số người Pháp sống ở Bắc Phi và hoạt động bí mật dưới sự giám sát của Đức đã tổ chức một "Phong trào Giải phóng Pháp" bí mật, với mục đích là giải phóng nước Pháp. Tướng Henri Giraud, sau khi trốn thoát khỏi Đức, trở thành lãnh đạo của phong trào. Cuộc đụng độ cá nhân giữa de Gaulle và Giraud đã ngăn cản Lực lượng Pháp tự do và các nhóm Phong trào Giải phóng Pháp thống nhất trong chiến dịch Bắc Phi (Bó đuốc).

Người Pháp thân Vichycó những người vẫn trung thành với Thống chế Pétain và tin rằng sự hợp tác với các cường quốc phe Trục là phương pháp tốt nhất cho tương lai của nước Pháp. Darlan là người kế vị được chỉ định của Pétain.

Chiến lược của Mỹ khi lập kế hoạch tấn công đã phải tính đến những vẫn đề phức tạp trên thực địa. Các nhà hoạch định giả định rằng nếu các nhà lãnh đạo được Đồng minh hỗ trợ quân sự, họ sẽ thực hiện các bước để tự giải phóng, và Hoa Kỳ đã bắt tay vào các cuộc đàm phán chi tiết dưới sự chỉ đạo của Tổng lãnh sự Mỹ Robert Murphy ở Rabat với Phong trào Giải phóng Pháp. Vì Anh đã cam kết về mặt ngoại giao và tài chính với de Gaulle, nên rõ ràng là người Mỹ sẽ phải tiến hành các cuộc đàm phán với Phong trào Giải phóng Pháp và cả cuộc tấn công nữa. Vì sự cạnh tranh giữa các phe ở Bắc Phi, sự ủng hộ của họ là không chắc chắn, và do cần phải giữ bí mật, các kế hoạch chi tiết không thể được chia sẻ với người Pháp.

Kế hoạch của Đồng Minh

Oran, Algiers và Casablanca đã được xác định là những mục tiêu chính. Lý tưởng nhất là cũng sẽ có một cuộc đổ bộ tại Tunis để đảm bảo an ninh cho Tunisia và tạo điều kiện thuận lợi cho việc ngăn chặn nhanh chóng các nguồn cung cấp đi qua Tripoli cho lực lượng của Rommel ở Libya. Tuy nhiên, Tunis ở quá gần các sân bay của phe Trục ở Sicily và Sardinia nên không có hy vọng thành công. Liên quân sẽ đổ bộ tại Bône ở miền đông Algeria, gần Tunis hơn Alger khoảng 300 dặm (480 km). Nguồn lực hạn chế khiến quân Đồng minh chỉ có thể thực hiện ba cuộc đổ bộ và Eisenhower - người tin rằng bất kỳ kế hoạch nào cũng phải bao gồm các cuộc đổ bộ tại Oran và Algiers - có hai lựa chọn chính: hoặc lựa chọn phía tây, đổ bộ xuống Casablanca, Oran và Algiers và sau đó thực hiện nhanh chóng một cuộc di chuyển tới Tunis cách Algiers khoảng 500 dặm (800 km) về phía đông một khi phe đối lập Vichy bị đàn áp; hoặc phương án phía đông, hạ cánh tại Oran, Algiers và Bône và sau đó tiến qua đường bộ đến Casablanca cách Oran khoảng 500 dặm (800 km) về phía tây. Ông ủng hộ lựa chọn phía đông vì những lợi thế mà nó mang lại cho việc đánh chiếm Tunis sớm và cũng vì một cuộc đổ bộ Casablanca gần Đại Tây Dương sẽ nguy hiểm hơn là Địa Trung Hải.

Tuy nhiên cũng có những lo ngại rằng chiến dịch sẽ khiến Tây Ban Nha từ bỏ trạng thái trung lập của mình. Khi Tây Ban Nha gia nhập phe Trục thì eo biển Gibraltar có thể bị đóng cửa hoàn toàn, cắt đứt con đường liên lạc của Đồng Minh. Do đó, phương án Casablanca đã được chọn để giám thiểu rủi ro vì các lực lượng ở Algeria và Tunisia có thể được tiếp tế trên bộ từ Casablanca (mặc dù có khó khăn đáng kể) trong trường hợp các eo biển bị đóng.

Sự phản đối của Marshall đối với chiến dịch đã trì hoãn cuộc đổ bộ gần một tháng, và sự phản đối của ông đối với cuộc đổ bộ ở Algeria khiến các nhà lãnh đạo quân sự Anh đặt câu hỏi về khả năng chiến lược của ông; Hải quân Hoàng gia kiểm soát eo biển Gibraltar, và Tây Ban Nha không có khả năng can thiệp vì Franco đang cần tự lo thân mình sau cuộc nội chiến hơn là tham chiến. Cuộc đổ bộ vào Maroc đã xoá bỏ sự kiểm soát với Tunisia. Eisenhower nói với Patton rằng sáu tuần qua là thời gian cố gắng nhất trong cuộc đời ông. Khi Eisenhower chấp nhận đổ bộ vào Algeria và Morocco, ông ấy chỉ ra rằng quyết định đó đã tăng thểm khả năng chiếm Tunis sớm do phe Trục sẽ mất nhiều thời gian để đưa quân vào Tunisia.

Diễn biến cuộc chiến

Bản đồ Chiến dịch Bó đuốc.

Casablanca

Oran

nhỏ|Một trong số 116 máy bay vận tải [[Supermarine Spitfire được chuyển đến bằng đường biển được lắp ráp chỉ trong vòng 11 ngày tại Gibraltar.]]

Những cuộc đổ bộ không vận

Algiers

Kháng cự và đảo chính

Cuộc tiến công

Kết quả

Kết quả chính trị

nhỏ|trái|Huy chương kỷ niệm Chiến dịch Bó đuốc tại [[Đài tưởng niệm Chiến tranh Hoa Kỳ, Gibraltar|Đài tưởng niệm Chiến tranh Hoa Kỳ ở Gibraltar.]]

Kết quả về quân sự

Toulon

Tunisia

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Bó đuốc** (_Operation Torch_, lúc đầu được đặt tên **Chiến dịch Gymnast**) là cuộc tấn công của liên minh Hoa Kỳ–Anh lên lãnh thổ Bắc Phi thuộc Pháp trong Chiến tranh thế giới
**Chiến dịch Tunisia** (hay còn gọi là **Trận Tunisia**) là một loạt trận đánh diễn ra tại Tunisia trong Chiến dịch Bắc Phi thời chiến tranh Thế giới thứ hai, giữa các lực lượng Phe
**Chiến dịch mùa Xuân năm 1975**, hay **Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam**, là những cuộc tấn công quân sự cuối cùng của Quân Giải phóng
**Chiến dịch Sấm Rền** (tiếng Anh: _Operation Rolling Thunder_) hay** Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất** (theo cách gọi của chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay)
**Chiến dịch Sao Thiên Vương (Uranus)** (tiếng Nga: _Операция «Уран»_, phiên âm La Tinh: _Operatsiya Uran_; tiếng Đức: _Operation Uranus_) là mật danh của chiến dịch có tính chiến lược của Liên Xô thời gian
**Chiến dịch Sao Thổ** (tiếng Nga: _Операция Сатурн_) là mật danh do Bộ Tổng tư lệnh tối cao Quân đội Liên Xô đặt cho cuộc tấn công quy mô lớn thứ hai của Chiến cục
**Chiến dịch Blau** (tiếng Đức: **_Fall Blau_**) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận
**Chiến dịch Overlord**, hay **Cuộc tập trận Hornpipe**, là mật danh của **Trận Normandie,** một chiến dịch quân sự quy mô lớn của quân đội Đồng Minh tại miền Bắc nước Pháp trong Chiến tranh
**Chiến dịch Đăk Tô – Tân Cảnh** hay **Trận Đăk Tô – Tân Cảnh** năm 1967, là một trận đụng độ trực tiếp giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với quân đội Hoa
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Chiến dịch Smolensk** (7 tháng 8 năm 1943 – 2 tháng 10 năm 1943) hay còn gọi là **Trận Smolensk lần thứ hai** là một Chiến dịch tấn công chiến lược của Hồng quân Liên
**Chiến dịch Budapest** (Tiếng Nga:_Будапештская операция_) là trận đánh lớn nhất giữa quân đội Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và quân đội Hungary tại _Mặt trận Hungary_ thuộc Chiến tranh Xô-Đức trong
**Chiến dịch Guadalcanal**, còn gọi là **Trận Guadalcanal**, tên mã của Đồng Minh là **Chiến dịch Watchtower**, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo
**Chiến dịch _Weserübung**_ () là mật danh của cuộc tấn công do Đức Quốc xã tiến hành tại Đan Mạch và Na Uy trong Chiến tranh thế giới thứ hai, mở màn Chiến dịch Na
**Chiến dịch Market Garden** là một chiến dịch quân sự lớn của quân đội Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra từ ngày 17 tháng 9 năm 1944 tới ngày 25
**Chiến dịch tấn công Proskurov (Khmelnitskyi)–Chernovtsy** (từ 4 tháng 3 đến 17 tháng 4 năm 1944) là một trong các trận đánh lớn nhất giữa Hồng quân Liên Xô và Quân đội Đức quốc xã
**Chiến dịch Šiauliai** hay **Chiến dịch Shyaulyay** diễn ra từ ngày 5 tháng 7 đến ngày 29 tháng 8 năm 1944 là một trong các hoạt động quân sự lớn của Hồng quân Liên Xô
**Chiến dịch phòng ngự chiến lược Leningrad** là tổ hợp các hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô chống lại các cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã tại khu vực
**Chiến dịch Pedestal** (, **Trận chiến giữa tháng Tám**), được người dân Malta gọi là **** (, **Đoàn vận tải Santa Maria**), là một chiến dịch tiếp vận đảo Malta của Hải quân Hoàng gia
**Chiến dịch Hồ Chí Minh**, tên ban đầu là **Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn – Gia Định**, là chiến dịch cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Cuộc Tổng tấn
**Chiến dịch Xuân – Hè 1972**, còn được biết đến với tên gọi **Mùa hè đỏ lửa** (theo cách gọi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa), hoặc **Easter Offensive** ("Chiến dịch Lễ Phục Sinh";
**Chiến dịch giải phóng Novorossiysk** là cuộc tấn công chiến thuật của Tập đoàn quân 18 và Hạm đội Biển Đen (Liên Xô) từ ngày 10 đến ngày 16 tháng 9 năm 1943 để thu
**Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi–Chişinău** hay **Chiến dịch tấn công chiến lược Jassy-Kishinev** (,, gọi tắt là **Chiến dịch Iaşi-Chişinău** hay **Chiến dịch Jassy-Kishinev** là một chiến dịch tấn công chiến lược của
**Chiến dịch đổ bộ đường không Rzhishchev-Bukrin** là một hoạt động quân sự nằm trong khuôn khổ Trận sông Dniepr. Ban đầu, chiến dịch này được coi là hoạt động tiền đề cho Trận Kiev
**Chiến dịch Đông Bắc I** là một "chiến dịch nhỏ" trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra từ ngày 8 tháng 10 đến ngày 7 tháng 12 năm 1948. Hai bên tham
**Chiến dịch tấn công Nevel** là một chiến dịch độc lập do cánh phải của Phương diện quân Kalinin tiến hành từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 10 năm 1943 tại thành phố Nevel
**Chiến dịch Gorodok (1943)** là hoạt động quân sự quy mô lớn đầu tiên của Phương diện quân Pribaltic 1 (Liên Xô) kể từ khi nó được đổi tên từ Phương diện quân Kalinin ngày
**Chiến dịch Mogilev** (23 tháng 6 - 28 tháng 6 năm 1944) là một trận tấn công của quân đội Liên Xô nhằm vào quân đội Đức Quốc xã, diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức
**Chiến dịch phản công Tikhvin** (10 tháng 11 năm 1941 - 30 tháng 12 năm 1941) là một trận đánh diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức quốc xã trong Chiến
**Chiến dịch tấn công Bucharest-Arad** (30 tháng 8 - 3 tháng 10 năm 1944), còn gọi là **Chiến dịch Rumani**, là một chiến dịch quân sự do Hồng quân Liên Xô và quân đội Rumani
**Chiến dịch Lyublin–Brest** hay **Chiến dịch Lublin-Brest** là một chiến dịch quân sự diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tiếp tục tấn công vào Cụm tập đoàn
**Chiến dịch Minsk**, một phần của Chuỗi chiến dịch giải phóng Byelorussia vào mùa hè năm 1944, mang mật danh "Bagration", là hoạt động tấn công, hợp vây của quân đội Liên Xô nhằm vào
**Chiến dịch Vilnius** là đòn phát triển tiếp tục tấn công phát huy chiến quả sau Chiến dịch Minsk của Phương diện quân Byelorussia 3 (Liên Xô) chống lại các lực lượng Đức Quốc xã
**Chiến dịch Tây Carpath** là một chiến dịch tấn công chiến lược do quân đội Liên Xô tiến hành nhằm tấn công vào tuyến phòng thủ của quân đội Đức Quốc xã tại miền Tây
**Chiến dịch sự giận dữ của Chúa trời** (, _Mivtza Za'am Ha'el_) cũng được gọi là **Chiến dịch Bayonet**, là một chiến dịch mật do Israel và Mossad chỉ đạo nhắm tới các cá nhân
**Chiến dịch Battleaxe** là một chiến dịch quân sự do Lực lượng Sa mạc Tây (Anh) tổ chức trên Mặt trận Bắc Phi trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhằm tống khứ quân Trục
**Chiến dịch Bắc Kỳ** () là một chiến dịch diễn ra từ tháng 6 năm 1883 đến tháng 4 năm 1886 do Pháp tổ chức, nhằm chống lại các đội quân của người Việt, quân
Trang bìa cuốn "Huấn thị điều hành căn bản Kế hoạch Phụng Hoàng" Tập số 3, bản kín (mật) số hiệu 2211 **Chiến dịch/Kế hoạch/Chương trình Phụng Hoàng/Phượng Hoàng** (tiếng Anh: _Phoenix Program_) (1968-1975) là
**Chiến dịch Starlite**, trong tiếng Việt gọi là **Cuộc hành quân Ánh sáng sao**, là một chiến dịch "tìm và diệt" của quân đội Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam. Đây là chiến dịch đầu
**Chiến dịch phòng thủ Tikhoretsk–Stavropol** là một trong các hoạt động quân sự đầu tiên của quân đội Liên Xô tại khu vực Bắc Kavlaz trong Chiến tranh Xô-Đức nhằm chống lại Cuộc hành quân
**Chiến dịch Maikop-Krasnodar** là cuộc tấn công lớn của Quân đội Liên Xô tại Bắc Kavkaz chống lại Tập đoàn quân 17 của Quân đội Đức Quốc xã tại khu vực phía Tây đồng bằng
**Chiến dịch Mozdok–Stavropol** là đòn phản công lớn đầu tiên trong năm 1943 của Cụm tác chiến Bắc Kavkaz (Liên Xô) vào Cụm tập đoàn quân A (Đức) trên một chính diện rộng hơn 150 km,
**Chiến dịch Matterhorn** là một chiến dịch quân sự của Không lực Hoa Kỳ trong Thế chiến II bằng các cuộc ném bom chiến lược nhằm vào lực lượng Nhật Bản thực hiện bởi những
**Chiến dịch tấn công Dukhovshchina lần thứ nhất** là hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô trong khuôn khổ Chiến dịch Smolensk (1943) chống lại quân đội Đức Quốc xã. Diễn ra chỉ
**Chiến dịch Gomel–Rechitsa** là một trong hai hoạt động quân sự lớn đầu tiên của Phương diện quân Byelorussia (Liên Xô) được hình thành sau khi sáp nhập Phương diện quân Trung tâm và Phương
**Chiến dịch tấn công Odessa** (26 tháng 3 - 14 tháng 4 năm 1944) là một trong các chiến dịch quân sự cuối cùng giữa Quân đội Liên Xô và Quân đội Đức Quốc xã
thumb|Một chiến dịch chống tham nhũng chưa từng có đã bắt đầu sau khi [[Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XVIII kết thúc tại Bắc Kinh vào tháng 11 năm 2012.]] Một
**Chiến dịch Borneo** năm 1945 là chiến dịch lớn cuối cùng của Đồng Minh ở mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong một loạt các cuộc đổ
**Chiến dịch _Braunschweig**_ là một hoạt động quân sự của quân đội phát xít Đức, mở màn vào ngày 23 tháng 7 năm 1943. Đây là giai đoạn hai của Chiến dịch Blau và diễn
**Chiến dịch Gió lốc** () là chiến dịch do Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ thực hiện nhằm di tản bằng trực thăng người Mỹ và các quan chức, tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa