✨Chechnya

Chechnya

Tập tin:Map of Chechnya.svg Cộng hòa Chechnya (tiếng Nga: Чече́нская Респу́блика/Chechenskaya Respublika; tiếng Chechen: Нохчийн Республика/Noxçiyçö Respublika), là một nước cộng hòa thuộc Nga. Nằm trên vùng núi Bắc Caucasus, Chechnya giáp phía tây–bắc với Stavropol Krai, phía đông; đông–bắc giáp Gruzia, phía tây giáp Ingushetiya và Bắc Ossetia.

Trong thời gian Liên Xô sụp đổ, chính phủ lâm thời của Chechnya tuyên bố độc lập, đặt tên nước là Cộng hòa Chechnya. Nhưng nền Cộng hòa này không được quốc tế công nhận. (Năm 2000 chính phủ Taliban của Afghanistan công nhận Cộng hòa Chechnya trước khi bị quân đội Hoa Kỳ đánh đuổi.)

Lịch sử

Chechnya là một vùng ở phía Bắc Kavkaz luôn phải kháng cự lại thế lực cai trị bên ngoài bắt đầu từ người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman ở thế kỷ 15. Cuối cùng người dân Chechnya đã cải theo Hồi giáo và căng thẳng với người Thổ giảm dần; tuy nhiên, những cuộc xung đột với những người láng giềng theo Thiên Chúa giáo như người Gruzia và Cô Dắc, cũng như với người Kalmyk theo Phật giáo lại tăng lên. Đạo quân Terek Cô Dắc của người Nga được thành lập tại vùng đất thấp Chechnya năm 1577 bởi những người Cô Dắc tự do tái định cư từ Volga tới vùng Sông Terek. Năm 1783, Nga và vương quốc đông Georgia Kartl-Kakheti (vốn đã bị tàn phá bởi những cuộc cướp phá của người Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Tư) ký kết Hiệp ước Georgievsk, theo đó Kartl-Kakheti nhận được sự bảo hộ của Nga. Để giữ mối liên lạc với Georgia và các vùng khác tại vùng Ngoại Kavkaz, Đế chế Nga bắt đầu mở rộng ảnh hưởng vào vùng núi Caucasus. Cuộc kháng chiến chống sự cai trị của Nga hiện nay đã bắt đầu từ cuối thế kỷ 18 (1785-1791) như là hậu quả của hành động mở rộng của nước Nga vào những lãnh thổ thuộc quyền kiểm soát cũ của Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Tư (xem thêm Những cuộc chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ và Chiến tranh Nga-Ba Tư, 1804-13), dưới sự lãnh đạo của Mansur Ushurma—một Naqshbandi (Sufi) Sheikh Chechnya—với sự ủng hộ ít ỏi từ phía các bộ lạc Bắc Caucasia khác (việc các vị khan thay đổi phe xung đột nhiều lần trong một năm không phải là điều hiếm gặp). Mansur đã hy vọng thành lập một nhà nước Hồi giáo Nam Kavkaz theo luật shari'a, nhưng cuối cùng không thể thành công bởi cả sự phản đối của Nga và sự chống đối của nhiều người dân Chechnya (nhiều người trong số họ ở thời điểm ấy còn chưa theo Hồi giáo). Khẩu hiệu của họ do Imam Shamil, người đã chiến đấu chống lại người Nga từ năm 1834 tới 1859 đưa ra.

Thời Xô viết

Suốt từ thế kỷ 19, ngọn lửa chống đối Chechnya luôn bùng lên khi nước Nga phải đối mặt với tình trạng bất ổn bên trong. Nhiều cuộc nổi dậy đã xảy ra thời Chiến tranh Nga-Thổ (Xem Chiến tranh Nga-Thổ, 1877–1878), Cách mạng Nga 1905, Cách mạng Nga 1917, Nội chiến Nga, và thời Tập thể hoá. Thời Xô viết, Chechnya được gộp cùng Ingushetia thành nước Cộng hòa tự trị Chechnya-Ingushetia vào cuối thập niên 1930.

Người Chechen một lần nữa nổi loạn chống lại nhà nước Xô viết trong thập niên 1940 bằng cách cộng tác với quân Đức Quốc xã, dẫn tới cuộc trục xuất hàng loạt người Chechen tới CHXHCNXV Kazakh (sau này là Kazakhstan) và Siberia trong Chiến tranh thế giới thứ hai [http://www.kavkazcenter.com/eng/content/2004/02/26/2469_print.html]. Stalin và những người khác cho rằng điều này là cần thiết để ngăn chặn người Chechen hỗ trợ cho quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Dù chiến trận không bao giờ lan tới biên giới Chechnya, một phong trào du kích Chechnya đã đe dọa làm suy yếu thế trận phòng thủ vùng Kavkaz của Xô viết (cần lưu ý nhà văn Valentin Pikul trong đoạn viết về lịch sử Barbarossa đã cho rằng khi thành phố Grozny đang chuẩn bị cho một cuộc phong tỏa năm 1942, tất cả máy bay ném bom của mặt trận Caucasia được lệnh phải dẹp yên cuộc nổi loạn của người Chechen thay vì chiến đấu với quân Đức trong cuộc phong toả Stalingrad). Tương tự, những vụ thả dù bí mật của quân Đức tiếp tế cho quân nổi loạn Chechnya cũng thường xảy ra. Người Chechen được phép quay trở lại quê hương họ sau năm 1956 ở thời phi Stalin hoá khi Nikita Khrushchev lên nắm quyền.

Các chính sách Nga hóa người dân Chechnya tiếp tục diễn ra sau năm 1956, tiếng Nga trở thành ngôn ngữ cần thiết cho mọi mặt đời sống và để tiến thân vào hệ thống Xô viết.

Khi Liên bang Xô viết sụp đổ năm 1990, một phong trào độc lập, ban đầu là Đại hội Quốc gia Chechnya, được thành lập. Phong trào này cuối cùng đã bị nhà nước Nga của Boris Yeltsin phản đối, với lý lẽ: (1) Chechnya chưa từng là một thực thể độc lập bên trong Liên bang Xô viết – như vùng Baltic, Trung Á, và các Quốc gia Caucasia khác – mà từng là một phần của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga và vì thế không có quyền ly khai theo hiến pháp Nga;

(2) Các nhóm dân tộc thiểu số khác bên trong nước Nga, như người Tatars, sẽ theo bước người Chechen và đòi ly khai khỏi Nga nếu họ được trao quyền đó, điều này đe dọa nghiêm trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của Nga;

(3) Chechnya là một điểm nút cơ sở hạ tầng dầu khí quốc gia và vì thế có thể gây ảnh hưởng tới nền kinh tế quốc gia cũng như việc kiểm soát các nguồn tài nguyên dầu khí.

Cuộc chiến tranh Chechnya lần thứ nhất

Cuộc chiến tranh Chechnya lần thứ hai

Vai trò của Nga tại Chechnya

Chechnya được những người theo chủ nghĩa ly khai của họ coi là một nước Cộng hòa độc lập, và được những người theo chủ nghĩa liên bang coi là một nước Cộng hòa liên bang. Hiến pháp vùng của nước này bắt đầu có hiệu lực ngày 2 tháng 4 năm 2003 sau cuộc trưng cầu dân ý tổ chức ngày 23 tháng 3 năm 2003. Cuộc trưng cầu dân ý này được tổ chức không theo các tiêu chuẩn quốc tế. Con số người tham dự được đưa ra dường như cao hơn thực tế rất nhiều. Một số người Chechyna thuộc hay đã thuộc tầm kiểm soát của các teip địa phương, hay các dòng họ, dù vẫn có sự tồn tại của các phong trào chính trị ủng hộ và phản đối nước Nga.

Bản đồ Chechnya và Kavkaz

Từ năm 1990, tại Cộng hoà Chechnya đã xảy ra một cuộc nội chiến quân sự, theo đúng nghĩa giữa phong trào phản đối và ủng hộ chính quyền Nga.

Động cơ của người Nga và người Chechya trong những cuộc xung đột này rất phức tạp. Nước Nga can dự vào Chechnya liên quan tới sự lo ngại rằng nếu Chechnya độc lập, sẽ có thêm nhiều vùng lãnh thổ khác ly khai khỏi nước Nga, dẫn tới sự tan rã của nó. Những nguồn lợi kinh tế cũng là một yếu tố khác. Từ lâu đã có một cuộc xung đột giữa Nga và Chechnya gây ra những tổn thất đẫm máu cho cả hai phía.

Có nhiều nhóm khác nhau bên trong Chechnya chiến đấu chống lại Nga với những động cơ chính trị, kinh tế và/hay lý tưởng khác nhau. Một số nhóm xuất phát từ lòng căm thù và ham muốn trả thù những hành động chính trị và quân sự của nước Nga trong quá khứ. Đặc biệt là việc dời toàn bộ dân tới Siberia trong thập kỷ 1940, dẫn tới sự thiệt mạng của khoảng một phần tư dân số Chechnya. Sự tổng hợp của các động cơ biểu lộ vòng xoáy trả thù là nhiên liệu cho những cuộc xung đột trong vùng, cũng như nền văn hóa quân sự khiến đa số dân muốn tham gia vào một cuộc xung đột quân sự dưới sự lãnh đạo của một vị thủ lĩnh. Tình trạng thất nghiệp và nghèo khổ cũng là những yếu tố kéo dài cuộc xung đột.

Vị lãnh chúa ly khai cũ Akhmad Kadyrov, bị nhiều người ly khai coi là kẻ phản bội đã nhận được 83% số phiếu trong một cuộc bầu cử có sự giám sát quốc tế vào ngày 5 tháng 10 năm 2003. Những lời lên án về việc gian lận phiếu và đe dọa của binh lính Nga và việc trục xuất các Đảng ly khai sau này đã được các giám sát viên Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) đề cập. Rudnik Dudayev là chủ tịch Hội đồng An ninh Chechnya và Anatoly Popov trở thành Thủ tướng. Ngày 9 tháng 5 năm 2004, Kadyrov bị ám sát trong một sân vận động ở Grozny bằng một vụ nổ mìn được dấu sẵn từ trước bên dưới khu vực VIP và được kích nổ khi đang diễn ra cuộc diễu binh tưởng niệm Chiến tranh thế giới thứ hai. Sergey Abramov được chỉ định làm quyền thủ tướng sau vụ ám sát. Tuy nhiên, sau một vụ tai nạn ô tô tại Mátxcơva năm 2005 Sergey Abramov không còn có thể đảm đương chức vụ. Ramzan Kadyrov (con trai của Akhmad Kadyrov) trở thành người đảm nhiệm chức vụ thủ tướng từ sau vụ tai nạn và ngày 1 tháng 3 năm 2006 Abramov đã từ chức. Abramov đã nói với hãng thông tấn Itar-Tass: "Tôi từ chức trong hoàn cảnh Ramzan Kadyrov điều hành chính phủ Chechnya bởi tôi thực sự tin rằng quyết định đó là đúng đắn."

Nhiều người tin rằng Ramzan Kadyrov sẽ nỗ lực kế bước cha nếu ông ta không gặp vấn đề tuổi tác – hiện ông mới hơn 20 tuổi (45 tuổi vào 2021) và hiến pháp đòi hỏi tổng thống phải trên 30 tuổi. Nhiều người cho rằng ông là người giàu nhất và nhiều quyền lực nhất nước, với quyền kiểm soát nhiều đội quân vũ trang tư nhân lớn được gọi là 'Kadyrovski'. Đội quân vũ trang – tiền thân là đội bảo vệ an ninh của cha ông – bị nhiều tổ chức nhân quyền như Human Rights Watch cáo buộc thực hiện các vụ giết hại và bắt cóc.

Ngày 29 tháng 8 năm 2004 một cuộc bầu cử tổng thống mới diễn ra. Theo Ủy ban bầu cử Chechnya, Alu Alkhanov, cựu Bộ trưởng nội vụ nhận được khoảng 74% số phiếu. Tỷ lệ người tham gia bầu cử đạt 85,2%. Nhiều nhà quan sát, như Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Liên đoàn Nhân quyền Helsinki, cũng như phe đối lập, đặt nghi vấn về cuộc bầu cử, một phần vì đối thủ chính Malik Saidullayev chưa đạt tầm cần thiết. Việc bỏ phiếu cũng bị nghi ngờ, nhưng không hề có một nghi vấn chính thức nào được đưa ra. Cuộc bầu cử được quốc tế giám sát với sự hiện diện của Hội đồng các quốc gia độc lập và Liên đoàn Ả rập; các nhà quan sát phương tây, dù được mời, đã không tham gia giám sát do những vi phạm từ trước đó.

Ngoài chính phủ được Nga công nhận, còn có một chính phủ ly khai không được bất kỳ một nước nào công nhật (dù các thành viên đã được trao quy chế tỵ nạn chính trị tại châu Âu và các nước Ả rập, cũng như tại Hoa Kỳ). Chính phủ ly khai đã được Georgia công nhận (khi Zviad Gamsakhurdia còn là Tổng thống Georgia và Tổng thống Chechnya là Dzhokhar Dudaev. Năm 1999 chính phủ Taliban của Afghanistan công nhận nền độc lập của Chechnya và cho phép mở đại sứ tại Kabul ngày 16 tháng 1 2000. Việc công nhận đã bị hủy bỏ khi Taliban bị đánh bại năm 2001. Tổng thống của chính phủ này là Aslan Maskhadov, Bộ trưởng ngoại giao là Ilyas Akhmadov, người này cũng là người phát ngôn của Maskhadov. Ilyas Akhmadov hiện sống tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Aslan Maskhadov đã được chọn vào một Ủy ban giám sát bầu cử quốc tế năm 1997 với nhiệm kỳ bốn năm, sự kiện này đã diễn ra sau việc ký kết một thỏa thuận với Nga. Năm 2001 ông đã đưa ra một nghị định kéo dài nhiệm kỳ của mình thêm một năm; ông không thể tham gia vào cuộc bầu cử tổng thống năm 2003 bởi các Đảng ly khai bị chính phủ Nga cấm đoán, và Maskhadov đối mặt với lời buộc tội tiến hành khủng bố trong nước Nga. Maskhadov đã rời Grozny sang vùng kiểm soát của phe ly khai ở phía nam khi Cuộc chiến tranh Chechnya thứ hai diễn ra. Tổng thống Maskhadov không thể gây ảnh hưởng tới một số vị lãnh chúa vẫn còn giữ quyền kiểm soát với một số vùng lãnh thổ Chechnya, và quyền lực của ông cũng đã mất. Ông đã lên án cuộc tấn công của những kẻ nổi loạn vào Beslan và cố giữ khoảng cách với Shamil Basayev, người tuyên bố chịu trách nhiệm cho cuộc tấn công trên. Các lực lượng Nga đã giết Maskhadov ngày 8 tháng 3 năm 2005. Vụ ám sát Maskhadov của các lực lượng Nga đã bị chỉ trích rộng rãi bởi vị lãnh đạo ly khai Chechnya "ôn hoà" đã không còn có thể đóng vai trò vào các cuộc thương lượng.

Akhmed Zakayev, Phó thủ tướng và là Bộ trưởng ngoại giao thời Maskhadov, lên nhậm chức một thời gian ngắn sau cuộc bầu cử năm 1997 hiện sống tỵ nạn tại Anh Quốc. Ông và những người khác đã lựa chọn Abdul Khalim Saidullayev để thay thế Maskhadov sau khi ông này chết, bỏ qua Basayev. Tuy nhiên, đã có tin báo rằng Basayev thay đổi lập trường và tuyên thệ trung thành với Saidullayev. Saidullayev là một vị thẩm phán Hồi giáo chưa mấy nổi tiếng, trước kia là một người dẫn chương trình Hồi giáo trên kênh truyền hình Chechnya. Lập trường của ông cũng chưa được tiết lộ, khiến người Nga và những người khác đoán rằng việc lựa chọn ông đánh dấu sự tiếp tục ảnh hưởng của Basayev – Saidullayev chỉ mang tính hình thức – và sự khan hiếm những nhân vật có ảnh hưởng trong phong trào ly khai Chechya. Ngày 17 tháng 6 năm 2006, có tin cho rằng các lực lượng đặc biệt Nga đã tiêu diệt Abdul Khalim Saidullayev trong một trận tập kích tại làng Argun, Chechnya. Theo tờ The New York Times, các kênh truyền hình Nga đã chiếu các hình ảnh khủng khiếp về một thân thể có thể là Saidullayev, và một Web site của quân nổi dậy Chechnya, Kavkaz Center, đã xác nhận cái chết của ông và tuyên bố ông là một người tử vì đạo. Người kế tục Saidullayev là Doku Umarov. Ngày 10 tháng 7 năm 2006, FSB thông báo rằng các mật vụ của họ đã tiêu diệt Basayev và 12 tên ly khai Chechnya tại Ingushetia khi kích nổ một quả bom gần xe tải chở những tên này. Quân ly khai Chechya đã bác bỏ thông tin và tuyên bố rằng Basayev bị thiệt mạng khi xe tải chở thuốc nổ bị nổ, và đây là một vụ tai nạn.

Khu vực hành chính

350x350px|thumb|Bản đồ Chechnya Tập tin:Flag of Grozny (Chechnya).svgGrozny Tập tin:Flag of Argun (Chechnya).svgArgun Tập tin:Flag of Achkhoy-Martanovsky District.gifAchkhoy-Martanovsky Tập tin:Flag of Groznensky district.svgGroznensky Tập tin:Flag of Gudermessky District (2021).gifGudermessky Tập tin:Itum kala r fl.gifItum-Kalinsky Tập tin:Flag of Kurchaloyevsky District.pngKurchaloyev Tập tin:Flag of Nadterechny District.gifNadterechny Tập tin:Naurski district flag.gifNaursky Tập tin:Flag of Nozhay-Yurtovsky District.pngNozhay-Yurtovsky Tập tin:Flag of Sernovodsky District.gifSernovodsky Tập tin:Flag of Shalinsky District (Chechnya).pngShalinsky Tập tin:Flag of Sharoysky District.gifSharoysky Tập tin:Flag of Shatoysky District.pngShatoysky Tập tin:Flag of Shelkovskoy District.jpgShelkovskoy Tập tin:Flag of Urus-Martanovsky district.pngUrus-Martanovsky *Tập tin:Vedeno district flag.jpgVedensky

Địa lý

Nằm ở phần phía đông của Bắc Caucasus, Chechnya hầu như bị bao quanh bởi lãnh thổ Nga. Ở phía tây, nước này có biên giới chung với Bắc Ossetia và Ingushetia, ở phía bắc, Stavropol Kray, ở phía đông, Dagestan, và ở phía nam, Georgia. Thủ đô Chechnya là Grozny.

Diện tích: 19.300 km² Các biên giới: Bên trong nước Nga: **Dagestan Ingushetia Bắc Ossetia-Alania Stavropol Krai **Nước ngoài: ***Gruzia (giáp các vùng Kakheti và Mtskheta-Mtianeti)

Các con sông: Terek Sunzha *Sông Argun

Múi giờ

Tập tin:Map of Russia - Moscow time zone.svg

Chechnya nằm trong Múi giờ Mátxcơva (MSK/MSD). Giờ bù UTC +0300 (MSK)/+0400 (MSD).

Kinh tế

Năm 2003

Trong chiến tranh, nền kinh tế Chechnya đã sụp đổ. Tổng sản phẩm quốc nội, nếu con số thống kê có thể tin cậy, chỉ bằng một phần nhỏ thời trước chiến tranh. Các vấn đề của nền kinh tế Chechya đã gây hiệu ứng tới nền kinh tế Nga - một số vụ tội phạm tài chính trong thập kỷ 1990 được tiến hành thông qua các tổ chức tài chính Chechnya. Chechnya có tỷ lệ các phiên giao dịch bằng dollar Mỹ so với các phiên giao dịch bằng đồng rúp Nga cao nhất bên trong Nga. Cũng có rất nhiều dollar giả được in ra bên trong nước này. Năm 1994, những người li khai dự định đưa vào sử dụng một đồng tiền mới, đồng Nahar, nhưng điều này đã không thể diễn ra bởi quân đội Nga đã tái chiếm Chechnya trong Cuộc chiến tranh Chechnya lần thứ nhất.

Với hậu quả chiến tranh, gần 80% tiềm năng kinh tế Chechnya đã bị phá hủy. Nhánh kinh tế duy nhất được khôi phục khá tốt là ngành công nghiệp dầu mỏ. Sản lượng dầu mỏ năm 2003 được ước tính khoảng 1.5 triệu tấn (hay 30 ngàn barrels mỗi ngày), giảm so với sản lượng đỉnh 4 triệu tấn mỗi năm trong thập kỷ 1980. Sản lượng năm 2003 chiếm gần 0,6% tổng sản lượng khai thác dầu mỏ của Nga. Tỷ lệ thất nghiệp cao, khoảng từ 60 tới 70 phần trăm. Dù đã có một số sự cải thiện kinh tế, buôn lậu và trao đổi vẫn chiếm một tỷ lệ lớn trong nền kinh tế Chechnya.[http://news.bbc.co.uk/2/hi/europe/4091635.stm]

Theo chính phủ Nga, hơn 2 tỷ dollar đã được chi cho việc tái thiết nền kinh tế Chechnya từ năm 2000. Tuy nhiên, theo cơ quan quản lý kinh tế trung ương Nga (Schyotnaya Palata), chưa tới 350 triệu dollar được chi tiêu.

Năm 2006 MegaFon (Mobicom-Kavkaz), với 300.000 thuê bao là công ty dịch vụ điện thoại di động duy nhất hoạt động tại Chechnya, dù MTS và VimpelCom cũng đã được cấp giấy phép.

Nhân khẩu

Theo những con số ước tính năm 2004, dân số Chechnya xấp xỉ 1.1 triệu người. Theo cuộc điều tra dân số năm 2002, số người Chechen là  1.031.647 triệu người chiếm 93,5% tổng dân số của nước Cộng hòa này. Các nhóm dân tộc khác gồm người Nga (40.645, hay 3,7%), Kumyks (8.883, hay 0,8%), và một số nhóm nhỏ khác, mỗi nhóm khoảng 0,5% tổng dân số.

Đa số người Chechen theo Hồi giáo Sunni, nước này đã chuyển theo đạo Hồi trong giai đoạn từ thế kỷ 16 tới thế kỷ 19. Cuối thời kỳ Sô viết, dân Nga chiếm khoảng 23% dân số (269.000 năm 1989). Vì những vụ tội phạm lan tràn và cái gọi là tẩy rửa sắc tộc do chính phủ Dzhokhar Dudayev tiến hành, đa số người dân không phải người Chechen (và nhiều người Chechen) đã phải bỏ chạy khỏi đất nước trong thập kỷ 1990.

Các ngôn ngữ được sử dụng bên trong nước Cộng hòa này gồm tiếng Chechen và tiếng Nga. Tiếng Chechen thuộc Vaynakh hay ngữ hệ Bắc Trung Kavkaz, nhóm này còn bao gồm tiếng Ingush và tiếng Batsb. Một số học giả đặt nó vào trong một ngữ hệ lớn hơn siêu ngữ hệ Iberia-Caucasia.

Chechnya là nước Cộng hòa có dân số trẻ bên trong nước Nga đang phải đau đầu với vấn đề dân số già; đầu thập kỷ 1990, đây là một trong số ít vùng có tăng trưởng dân số.

*Dân số: 1.103.686 (2002) - các con số còn bị tranh cãi Thành thị: 373.177 (33,8%) Nông thôn: 730.509 (66,2%) Nam: 532.724 (48,3%) *Nữ: 570.962 (51,7%) Tuổi trung bình: 22,7 Thành thị: 22,8 Nông thôn: 22,7 Nam: 21,6 **Nữ: 23,9 *Số lượng gia đình: 195.304 (với 1.069.600 người) Thành thị: 65.741 (với 365.577 người) Nông thôn: 129.563 (với 704.023 người)

👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Tập tin:Map of Chechnya.svg **Cộng hòa Chechnya** (tiếng Nga: Чече́нская Респу́блика/_Chechenskaya Respublika_; tiếng Chechen: Нохчийн Республика/_Noxçiyçö Respublika_), là một nước cộng hòa thuộc Nga. Nằm trên vùng núi Bắc Caucasus, Chechnya giáp phía tây–bắc với
**Cuộc chiến Chechnya lần thứ I** là một cuộc xung đột giữa Liên bang Nga và Cộng hòa Chechnya Ichkeria, từ tháng 12 năm 1994 đến tháng 8 năm 1996. Nguyên nhân bắt nguồn từ
**Cuộc chiến Chechnya lần thứ II** (, , lit: 'Chiến tranh Nga-Chechen lần thứ hai') là giai đoạn sau của cuộc chiến tranh ở Bắc Kavkaz, đã được phát động bởi Liên bang Nga bắt
**Cộng hòa Chechnya Ichkeria** (tiếng Chechnya Latinh: _Noxçiyn Pachhalq Noxçiyçö_, tiếng Chechnya Cyrillic: _Нохчийн Пачхьалкх Нохчийчоь_; tiếng Nga: _Чеченская Республика Ичкерия_; viết tắt: **ChRI** hoặc **CRI**) là một chính phủ của lực lượng Chechnya ly
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Chechnya** (Tiếng Chechnya: **Нохчийн Республикин Футболан Федераци**, Tiếng Nga: **сборная Чечни по футболу**) là đội tuyển bóng đá đại diện cho Chechnya. Họ là thành viên của NF-Board từ
**"Chết hay là tự do"** (tiếng Chechen: Joƶalla ya marşo, _Ӏожалла я маршо_, عوٓجاللا يا مارشوٓ, tiếng Nga: _Смерть или Свобода_, _Smertʹ ili Svoboda_) là quốc ca của nhà nước ly khai Cộng hòa Chechnya
**Vụ nổ căn cứ Spetsnaz Chechnya** là ngày 8 tháng 2 năm 2006, là một vụ nổ tại doanh trại của đơn vị an ninh đặc biệt của Bộ Quốc phòng Nga tại Kurchaloi gần
Đã có hai cuộc **Chiến tranh Chechenya**: *Chiến tranh Chechnya lần thứ I, 1994–1996 *Chiến tranh Chechnya lần thứ II, 1999–2009
**Huyện Shalinsky**(; , _Şelan khoşt_) là một huyện hành chính tự quản (raion), của Chechnya, Nga. Huyện có diện tích 700 km², dân số thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 2000 là 68.862 người.
**Vụ tấn công Quốc hội Chechnya 2010** là một vụ tấn công khủng bố vào toà nhà Quốc hội Chechnya tại Grozny, Liên bang Nga vào ngày 19 tháng 10 năm 2010. Vụ tấn công
**Người Chechnya** (; **' ; tiếng Chechnya Cổ: Нахчой _Naxçoy_) là một dân tộc Kavkaz trong nhóm các dân tộc Nakh có nguồn gốc ở Bắc Kavkaz ,khu vực Đông Âu. Họ gọi mình là
**Trận chiến Grozny 1999–2000** là cuộc bao vây và tấn công thủ phủ Grozny của Chechnya được các lực lượng Nga triển khai, trận chiến kéo dài từ cuối năm 1999 đến đầu năm 2000,
**Trận điểm cao 776**, một phần của trận Ulus-Kert lớn hơn, là một cuộc chiến trong Chiến tranh Chechnya lần thứ hai diễn ra trong cuộc chiến giành quyền kiểm soát hẻm núi Argun ở
**Aslan Aliyevich Maskhadov** (tiếng Chechnya: Аслан Али кант Масхадан, tiếng Latin: Aslan Ali Kant Masxadaŋ, tiếng Nga: Аслан Алиевич Масхадов) (1951 -2005) là một nhà lãnh đạo của phong trào Chechnya ly khai và Tổng
**Natalya Khusainovna Estemirova** (; 28 tháng 2 năm 1958 – 15 tháng 7 năm 2009) là giáo viên, nhà báo, nhà hoạt động nhân quyền người Nga và là thành viên Ban điều hành Tổ chức
phải|Shamil Basayev trong cuộc chiến ở [[Dagestan]] **Shamil Salmanovich Basayev** (tiếng Nga: _Шами́ль Салма́нович Баса́ев_; 1965–2006) là nhà lãnh đạo của phong trào ly khai Chechnya và được Nga cho là trùm khủng bố, kẻ
**Dokka Khamatovich Umarov** (Chechnya: Iумар КIант Доккa; Nga: Доку Хаматович Умаров; 1964-2013) là cựu Tổng thống Cộng hòa Chechnya Ichkeria, người bị Nga cáo buộc các tội danh cướp bóc, giết người, bắt cóc, hành
nhỏ|phải|Dudayev **Dzhokhar Musayevich Dudayev** (tiếng Chechnya: _Дудин Муса кант Жовхар_; tiếng Nga: _Джохар Мусаевич Дудаев_; sinh 1944 - mất 1996) là một nhà lãnh đạo Chechnya, Tổng thống đầu tiên của nước Cộng hòa Chechnya
**Vụ khủng bố tại nhà hát Moskva** và vụ bắt giữ con tin ngày 23 tháng 10 năm 2002 tại một nhà hát đông người ở Mátxcơva do những người đàn ông và phụ nữ
**Trận Grozny lần thứ nhất** là trận đánh giữa Lực lượng mặt đất Nga thuộc Quân đội Nga đã phong tỏa và chiếm đóng thủ phủ Grozny (_Grô-z-nưi_) của cộng hòa Chechnya (_Chét-xi-nha_) vốn chưa
**Salman Betyrovich Raduyev** (tiếng Nga: _Салма́н Бетырович Раду́ев_, hay còn gọi là **Raduev**, với các biệt danh: _Titanic_ và _Michael Jackson_ sinh ngày 13 tháng 2 năm 1967 - mất ngày 14 tháng 12 năm
**Lidiya Mukhtarovna Yusupova** (tiếng Nga: **Лидия Мухтаровна Юсупова**) (sinh ngày 15 tháng 9 năm 1961 tại Grozny, Liên bang Xô Viết) là điều phối viên về luật pháp của Hội bảo vệ nhân quyền Memorial
Tập tin:Sadulayev.jpg**Abdul-Halim Salamovich Sadulayev** (Chechnya: Садулин Абусаламин кант Абдулхалим, tiếng Nga: Абдул-Халим Саламович Сайдулаев) (02 tháng 6 năm 1966 - Ngày 17 tháng 6 năm 2006) là Tổng thống thứ tư của nước Cộng hòa
nhỏ|phải|Apti Alaudinov năm 2015 **Apti Alaudinov** (tiếng Nga: _Апти Аронович Алаудинов_/_Апти Алаудинов_; sinh ngày 5 tháng 10 năm 1973 tại Stavropol Krai thuộc Liên Xô cũ. Ông hiện là tư lệnh phụ trách mặt trận
nhỏ|Akhmed Zakayev **Akhmed Zakayev Khalidovich** (tiếng Chechnya: Заки Хьалид кант Ахьмад, tiếng Nga: Ахмед Халидович Закаев) (sinh ngày 26 tháng 4 năm 1959 tại Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô Viết Kazakhstan, Liên Xô)
**Cổng bão** (tiếng Nga: Грозовые ворота, _Gra-gia-vy-e va-ro-ta_) là một bộ phim truyền hình ngắn tập thuộc thể loại tâm lý - chiến tranh, phát hành năm 2006 của Điện ảnh Nga. Dựa trên nội
phải|nhỏ**Zelimkhan Abdumuslimovich Yandarbiyev** (Chechnya: Яндарбин Абдулмуслиман кант Зелимха, tiếng Nga: Зелимхан Абдумуслимович Яндарбиев) (Ngày 12 tháng 9 năm 1952 - 13 tháng 2 năm 2004) là một nhà văn người Chechnya và một chính trị
thumb|Ramzan Kadyrov (2014) **Ramzan Akhmadovich Kadyrov** (sinh ngày 5 tháng 10 năm 1976) là một chính khách Chechnya. Ông là người đứng đầu Chechnya thuộc Nga. Ông là con trai Akhmad Kadyrov, một người Chehnya
nhỏ|phải|Adam Delimkhanov **Adam Sultanovich Delimkhanov** (tiếng Nga: _Адам Султанович Делимханов_, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1969) là một chính trị gia người Nga là thành viên của Đuma Quốc gia Nga từ năm 2007.
**Ruslan (Hamzat) Gelayev** (; _ГелаевгIеран Германи-воI Руслан (Хамзат)_) là một chỉ huy kháng chiến quân Chechnya khét tiếng ở Nga, trong cuộc đời binh nghiệp, ông đã đóng một vai trò quân sự và chính
**Sân bay Grozny** là một sân bay ở Cộng hòa Chechnya, Nga, cách thành phố Grozny 7,5 km về phía bắc. ## Hãng hàng không và điểm đến
**Grozny ** (; , __, phát âm tiếng Việt như là _Grô-z-nưi_ hay _Grôt-z-ni_) là thủ đô của Cộng hòa Chechnya thuộc Liên bang Nga. Thành phố nằm bên sông Sunzha. Theo điều tra dân
Xây dựng [[Đường Quân sự Gruzia xuyên qua những vùng lãnh thổ tranh cãi là một yếu tố chủ chốt trong thắng lợi cuối cùng của Nga]] _Những người dân miền núi rời [[aul_, của
**Nguyền rủa và quên lãng** (tiếng Nga: _Прокляты и забыты_) là một bộ phim thời sự về cuộc Chiến tranh Chechnya lần thứ nhất của đạo diễn Sergey Govorukhin, ra mắt lần đầu năm 1997.
**Chiến tranh ở Ingushetiya** là 1 cuộc xung đột bắt đầu vào năm 2007 như là sự lan rộng của cuộc xung đột ở Chechnya, 1 số nhà hoạt động nhân quyền và các chính
**Sazhi Zayndinovna Umalatova** (; sinh ngày 3 tháng 8 năm 1953) là một chính trị gia người Nga, nổi tiếng với chủ nghĩa hoạt động hợp pháp của Liên Xô, người tự xưng là Chủ
**Bài ca Shatlak** (tiếng Chechen: Шатлакхан Илли, _Şatlaqan Illi_, ký tự Ả Rập: شاتلاقان ىللى) là quốc ca của Cộng hòa Chechnya ở Nga. Lời sáng tác bởi Hodshy-Ahmed Kadyrov và được Umar Beksultanov phổ
**Anna Stepanovna Politkovskaya** (; 30.8.1958 – 7.10.2006) là nhà báo, nhà văn, nhà hoạt động nhân quyền người Nga, nổi tiếng về việc chống đối cuộc Chiến tranh Chechnya lần thứ hai và Vladimir Putin
nhỏ|phải|Lực lượng Checchen nhỏ|phải|Chỉ huy [[Magomed Daudov của Lực lượng Chechen, nay ông đã trở thành một chính trị gia nắm quyền thứ hai tại Chechnya]] **Lực lượng Chechen** hay **đặc nhiệm Chechen** hay **Lực
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga** ( ) hoặc gọi tắt là **Nga Xô viết** là nước cộng hòa Xô viết lớn nhất và đông dân nhất trong số mười
**Spetsnaz** (; là viết tắt cho _Войска **спец**иа́льного **наз**наче́ния_; tr. _Voyska **spets** ialnovo **naz** nacheniya_; [ ; "Đơn vị quân sự có nhiệm vụ đặc biệt"]) là một thuật ngữ chung chỉ nhiệm vụ đặc
**Vladimir Vladimirovich Putin** ( ; phiên âm tiếng Việt: Vla-đi-mia Vla-đi-mia-rô-vích Pu-chin; sinh ngày 7 tháng 10 năm 1952), là một chính trị gia người Nga và là cựu Thủ tướng của Liên bang Nga,
**RPG-7** là một loại súng chống tăng không giật dùng cá nhân, còn được gọi tại Việt Nam là **B41**. Gọi là B41 vì loại súng này là đời sau của B40 (hay bazooka 40 mm),
nhỏ|phải|Tổng thống Putin đang điều hành chính quyền nhỏ|phải|Putin vào năm 2015 **Chính sách đối nội của Vladimir Putin** là những quan điểm, hành động liên quan đến các chính sách đối nội của Vladimir
Hai quả bom nổ tại cuộc đua Marathon Boston 2013 vào ngày 15 tháng 4 năm 2013, giết chết 3 người và làm bị thương 282 người khác. Trong số hai quả bom có ít
**Kamov Ka-50 "Cá mập đen"** (; _Chornaya Akula_, tên ký hiệu của NATO: **Hokum A**) là loại trực thăng tấn công một chỗ ngồi của Nga, sử dụng hệ thống cánh quạt nâng đồng trục
**Boris Nikolaevich Yeltsin** (, ; sinh ngày 1 tháng 2 năm 1931 – mất ngày 23 tháng 4 năm 2007) là nhà hoạt động quốc gia, chính trị của Nga và Liên Xô. Ông là
Với sự giải tán Liên bang Xô viết ngày 25 tháng 12 năm 1991, Liên bang Nga trở thành một quốc gia độc lập. Nga là nước cộng hòa lớn nhất trong số 15 nước
**Yelena Vasiliyevna Masyuk** () sinh ngày 24 tháng 1 năm 1966 tại Almaty, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Kazakhstan, là một nhà báo truyền hình người Nga nổi tiếng về việc theo
**Danh sách các phong trào ly khai đang hoạt động** bao gồm các phong trào ly khai đang hoạt động ở nhiều quốc gia trên khắp thế giới. Tất cả các phong trào ly khai