Đàn xê-les-ta thường gọi tắt là celesta (tiếng Pháp: xê-les-ta, tiếng Anh: sɪˈlɛstə) là loại nhạc cụ sử dụng bàn phím như dương cầm (pianô), với đặc điểm cơ bản là thanh âm phát ra giống như tiếng chuông nhỏ, nên còn gọi là pianô chuông. Đây là khác biệt độc đáo so với dương cầm hiện đại tuy cả hai loại nhạc cụ này đều có nguồn gốc từ đàn clavơxanh.
Lược sử
nhỏ|Cơ chế phát thanh âm của celesta.
Celesta có nguồn gốc từ đàn "harmonium" thuộc loại nhạc cụ hơi sử dụng bàn phím, được nhà sản xuất nhạc cụ người Pháp là Auguste Victor Mustel (1842-1919) phát minh và chế tạo ra vào năm 1886, bằng cách thay thế tất cả bộ phát thanh âm bằng hơi (gồm những đường ống sậy) bằng bộ phát thanh âm gồm các thanh kim loại, còn các lỗ thổi hơi thay bằng búa đàn. Do đó, khi bấm phím đàn làm búa gõ lên thanh kim loại, sẽ gây ra thanh âm như tiếng chuông. Cha của ông là Charles Victor Mustel đã sáng tạo ra tiền thân của celesta, gọi là typophone vào năm 1860 - 1865 và được cấp bằng sáng chế ở phiên bản cải tiến vào năm 1868. Cả hai phát minh của hai cha con đều lấy ý tưởng từ cấu tạo và hoạt động của âm thoa do nhạc sĩ John Shore chế tạo từ năm 1711.
Khi gõ một phím trên bàn phím của đàn celesta này, thì phím sẽ làm một búa nhỏ bọc nỉ "rơi" xuống, không đập vào dây đàn (như dương cầm), mà đập vào thanh kim loại (thường bằng đồng hoặc bằng thép) làm phát ra âm thanh có độ cao tương ứng với chiều dài và độ dày của nó. Các thanh kim loại được gắn trong bộ cộng hưởng bằng gỗ bọc ngoài. Âm thanh phát ra có độ "tinh khiết" cao, rất giống tiếng chuông đồng nhỏ, thường cho cảm giác thánh thót, huyền diệu.
Trong quá trình sử dụng, các nhạc sĩ nhận thấy nhạc cụ này tạo hiệu quả khi độc tấu và có hiệu quả cao nhất khi âm thanh của nó phát ra trên nền nhạc chơi trên picolo hoặc đàn hạc. Tuy nhiên, cường độ thanh âm phát ra nhỏ, nên có rất ít bản hòa tấu viết riêng cho nhạc cụ này.
Trong âm nhạc hiện đại, đàn celesta đã được cải tiến nhiều, được sử dụng nhiều hơn, không chỉ trong nhạc cổ điển, mà còn cả trong nhạc Jazz, Rock và pop.
Các nhạc phẩm cổ điển và cận đại nổi tiếng dùng celesta
nhỏ|Bên trong của một celesta hiện nay.
- Ernest Chausson là một trong những nhà soạn nhạc đầu tiên sử dụng nhạc cụ này (nhạc cho vở La Tempête của Shakespeare).
- Maurice Ravel sử dụng đàn trong nhạc phẩm Laideronnette empress des pagodes de Ma Mère l'Oye.
- Celesta cũng giữ một vị trí đặc biệt trong The Planets (Các hành tinh, Op. 32 của Gustav Holst) để mô tả sao Thổ và sao Hải Vương.
- Celesta là một trong những nhạc cụ bàn phím gõ ưa thích của nhà soạn nhạc người Mỹ John Williams.
- Các bản giao hưởng số 4 và 13 của Shostakovich đã dùng nhạc cụ này ở phần kết thúc.
- Gustav Mahler là người sử dụng nó nhiều nhất trong các sáng tác của ông, như trong bản giao hưởng số 6, bản giao hưởng số 8 và giao hưởng Das Lied von der Erde (Bài ca của Trái đất).
- Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất sử dụng rất hiệu quả đàn celesta này là nhạc phẩm "Kẹp hạt dẻ" của P. I. Tchaikovsky.
Sử dụng trong các thể loại nhạc khác
Jazz
Từ năm 1928, một số nghệ sĩ piano jazz đôi khi sử dụng celesta như một nhạc cụ bổ sung. Như Fats Waller đã chơi celesta bằng tay phải còn dương cầm bằng tay trái cùng lúc. Sau đó, nhiều nghệ si kác, trong đó có Duke Ellington, Thelonious Monk và Herbie Hancock. Mở đầu ca khúc "Someday You'll Be Sorry" do Louis Armstrong biểu diễn cũng có tham gia của celesta. Các ghi âm của Frank Sinatra tiến hành cho Columbia vào những năm 1940 cũng dùng nhạc cụ này (như I'll Never Smile Again).
Rock và pop
Một số nhạc phẩm thuộc thể loại pop và rock, biểu diễn bằng nhạc cụ hoặc ca khúc đã ghi âm có dùng celesta nổi bật là:
- "Jethro Tull – The String Quartets" của Jethro Tull -
- "Rhythm of the Rain" của The Cascades
- "As If You Read My Mind" của Stevie Wonder
- "Everyday" của Buddy Holly
- "Baby It's You" của The Beatles
- "Girl Don't Tell Me" của The Beach Boys
- "She's a Rainbow" của The Rolling Stones
- "Sunday Morning" và "Stephanie Says" của The Velvet Underground.
- "Northern Sky" của Nick Drake
- "Maggie May" và "Mine for Me" của Rod Stewart
- "New York City" của Owl City.
- "Every Single Night" của Fiona Apple
Một số ban nhạc
- Ban nhạc progressive rock của Ý những năm 1970 đặt theo tên nhạc cụ này.
- Bruce Springsteen và Ban nhạc E Street đã sử dụng Celesta rất nhiều trong những ngày đầu của họ, Danny Federici thường chơi nhạc cụ này trong các buổi biểu diễn trực tiếp của ban nhạc trong suốt những năm 1970 và 80.
- Sheryl Crow cũng đã chơi celesta trong album năm 2017 của mình (Be Myself).
Nguồn trích dẫn
Thể loại:Âm nhạc
Thể loại:Nhạc cổ điển
Thể loại:Nhạc cụ Tây phương
Thể loại:Giới thiệu năm 1886
Thể loại:Phát minh Pháp
Thể loại:Nhạc cụ keyboard
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đàn xê-les-ta** thường gọi tắt là **celesta** (tiếng Pháp: xê-les-ta, tiếng Anh: sɪˈlɛstə) là loại nhạc cụ sử dụng bàn phím như dương cầm (pianô), với đặc điểm cơ bản là thanh âm phát ra
nhỏ|[[Dmitry Dmitrievich Shostakovich|Shostakovich, tác giả của bản giao hưởng]] **Giao hưởng số 5, cung Rê thứ, Op.47** là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc người Nga Dmitri Shostakovich. Tác phẩm này được ông viết
**Igor Fyodorovich Stravinsky** (tiếng Nga: Игорь Фёдорович Стравинский _Igor Fjodorovič Stravinski_; 17 tháng 6 năm 1882 – 6 tháng 4 năm 1971) là một nhà soạn nhạc người Nga, sau này đổi quốc tịch sang
**_Please Please Me_** là album đầu tay của ban nhạc rock người Anh The Beatles, được phát hành vào ngày 22 tháng 3 năm 1963. Album chính là sự mở đầu cho thời kỳ _Beatlemania_,
**Kẹp Hạt Dẻ** là vở balê hai màn của hai nhà biên đạo là Marius Petipa và Lev Ivanov với âm nhạc của Pyotr Ilyich Tchaikovsky. Nguyên gốc tên tác phẩm này trong tiếng Nga
"**Sunday Morning**" là ca khúc của ban nhạc The Velvet Underground, hợp tác cùng nữ ca sĩ người Đức Nico. Đây là ca khúc mở đầu cho album đầu tay năm 1967 của họ, _The
**Listen to Wikipedia**, còn gọi là **L2W** hoặc **Hatnote: Listen To Wikipedia**, là một trình hiển thị đa phương tiện do Mahmoud Hashemi và Stephen LaPorte phát triển, giúp chuyển các sửa đổi gần đây
**Maximilian Raoul Steiner** (10 tháng 5 năm 1888 – 28 tháng 12 năm 1971) là một nhà soạn nhạc kiêm nhạc trưởng người Mỹ gốc Áo. Nổi tiếng qua những bản nhạc cho các tác phẩm
nhỏ|Dương cầm loại 88 phím, gồm 52 phím trắng và 36 phím đen.|110x110px nhỏ|[[Banđônêôn là phong cầm có phím dạng nút hình trụ.|110x110px]] **Nhạc cụ bàn phím** (cũng gọi: đàn dùng bàn phím) là loại
**Trống định âm** là một nhạc cụ thuộc bộ gõ, được sử dụng nhiều nhất trong các dàn nhạc hòa tấu. Trống định âm thường bằng đồng, có hình dáng một nửa quả cầu, mặt
thumb|Âm vực của [[saxophone.]] Trong âm nhạc, **âm vực** hoặc dải âm vực của một nhạc cụ là khoảng cách từ âm thấp nhất đến cao nhất mà nó có thể chơi. Đối với một
Dàn nhạc giao hưởng [[München, 2008]] **Dàn nhạc giao hưởng** là một tổng thể về biên chế các nhạc cụ được sử dụng theo những nguyên tắc nhất định nhằm phục vụ cho việc diễn
**Arcade Fire** là một ban nhạc indie rock tại Montreal, Quebec, Canada. Các thành viên gồm vợ chồng Win Butler và Régine Chassagne, cùng với Richard Reed Parry, Tim Kingsbury, Jeremy Gara, và Sarah Neufeld.
**_19_** là album đầu tay của nữ ca sĩ-người viết bài hát người Anh Adele. Album được phát hành vào ngày 28 tháng 1 năm 2008, một tuần sau khi đĩa đơn chủ đạo "Chasing
**_The Velvet Underground & Nico_** là album đầu tay của ban nhạc rock người Mỹ, The Velvet Underground, được thực hiện với sự cộng tác của ca sĩ người Đức, Nico. Album được phát hành
**Boléro** (bô-lê-rô) của Maurice Ravel nguyên là vở nhạc vũ kịch thể balê với sự tham gia của dàn nhạc giao hưởng. Đây là tác phẩm mà tác giả cho là «_ballet de caractère espagnol_»
**_Six Bullets_** (**Sáu viên đạn**) là một bộ phim hành động - võ thuật - tâm lý Mỹ của đạo diễn Ernie Barbarash thực hiện với phần kịch bản của Chad và Evan Law, được
nhỏ|Giai kết chính thức/thực sự(perfect authentic cadence) (IV–V–I Hợp âm, tại đó chúng ta thấy hợp âm Fa trưởng, Son trưởng, và sau đó là Đô trưởng trong phần hòa âm thứ 4) trong Đô
nhỏ|Dmitri Shostakovich, tác giả của tổ khúc **Tổ khúc cho Dàn nhạc Đa dạng** (_Suite for Variety Orchestra)_ (tiếng Nga: _Cюита для эстрадного оркестра в восьми частях_) (sau năm 1956) là một tổ khúc tám
"**Sing**" là một bài hát được viết bởi Joe Raposo vào năm 1971 cho một chương trình truyền hình dành cho thiếu nhi _Sesame Street_ như một bài hát nổi danh. Vào năm 1973, nó
"**The Gnome**" là bài hát của ban nhạc rock người Anh Pink Floyd. Bài hát được viết bởi Syd Barrett, và nằm trong album đầu tay năm 1967 của họ, _The Piper at the Gates
**_Christopher Cross_** là album đầu tay của ca sĩ - nhạc sĩ người Mỹ Christopher Cross. Album được thu âm vào giữa năm 1979 và được phát hành vào tháng 12 cùng năm. Album ban
**_How Big, How Blue, How Beautiful_** là album phòng thu thứ ba của ban nhạc indie rock người Anh Florence and the Machine. Album phát hành vào ngày 29 tháng 5 năm 2015 tại Đức
**_The Piper at the Gates of Dawn_** là album phòng thu đầu tay của ban nhạc rock người Anh Pink Floyd, và là album duy nhất được thực hiện dưới sự dẫn dắt của Syd
**_A Song for You_** là album phòng thu thứ tư của bộ đôi nghệ sĩ người Mỹ The Carpenters. Album được A&M Records phát hành vào ngày 22 tháng 6 năm 1972. Theo Richard Carpenter,
**Rhythm of the Rain** (nhịp điệu cơn mưa) là một bài hát được The Cascades trình diễn, được phát hành vào tháng 11 năm 1962. Bài hát do thành viên ban nhạc Cascades John Claude
nhỏ|"Kosmogionia"được sáng tác bởi [[Krzysztof Penderecki.]] **Kosmogonia** là một tác phẩm âm nhạc của Krzysztof Penderecki. Nó"khám phá một tấm thảm âm thanh phức tạp". Kosmogonia (có nguồn gốc từ vũ trụ) đã được ủy