✨Cây trồng biến đổi gen
Cây trồng biến đổi gen (Genetically Modified Crop - GMC) là loại cây trồng được lai tạo ra bằng cách sử dụng các kỹ thuật của công nghệ sinh học hiện đại, hay còn gọi là kỹ thuật di truyền, công nghệ gen hay công nghệ DNA tái tổ hợp, để chuyển một hoặc một số gen chọn lọc để tạo ra cây trồng mang tính trạng mong muốn. Các tính năng thường bao gồm tính kháng sâu bệnh, kháng thuốc trừ cỏ, một số loại bệnh, chống chịu với các điều kiện môi trường bất thuận hoặc cải thiện giá trị dinh dưỡng của cây trồng
Về mặt bản chất, các giống lai từ trước đến nay (hay còn gọi là giống truyền thống) đều là kết quả của quá trình cải biến di truyền. Điểm khác biệt giữa giống lai truyền thống và giống cây biến đổi gen là: gen (DNA) được chọn lọc một cách chính xác dựa trên khoa học công nghệ hiện đại và chuyển vào giống cây trồng để đem lại một tính trạng mong muốn một cách có kiểm soát.
Tổng quan
Cây trồng chuyển gen là sự biến đổi vật chất di truyền, tiếp nhận thêm những gen mới, kết quả là xuất hiện những tính trạng mới dưới sự tác động của môi trường. Quá trình biến đổi vật chất di truyền (thêm gen mới) nhờ vào công nghệ chuyển gen, nếu so sánh quá trình này với quá trình đột biến trong tự nhiên về bản chất thì hai quá trình là một, bởi vì quá trình tiến hóa của sinh vật đều phải trông chờ vào quá trình biến đổi vật chất di truyền, trong đó đột biến đóng vai trò quan trọng. Dưới tác động của các nhân tố gây đột biến, vật chất di truyền được biến đổi theo hai hướng: thêm đoạn hay bớt đoạn. Như vậy, quá trình thêm đoạn nhờ chuyển gen cũng tương tự như quá trình thêm đoạn DNA trong đột biến tự nhiên.
Tuy nhiên, hai quá trình này có nhiều điểm khác nhau: Nếu quá trình chọn lọc tự nhiên chỉ giữ lại những biến dị có lợi cho quá trình tiến hóa của loài, thì trong kỹ thuật chuyển gen cây trồng chỉ giữ lại tính trạng có lợi đã được định hướng trước, có lợi về kinh tế, không ảnh hưởng tới quá trình tiến hóa của loài. Đây là điểm khác biệt căn bản nhất giữa đột biến tự nhiên và "đột biến" nhờ kỹ thuật chuyển gen. Sản phẩm của đột biến tự nhiên là tính trạng có lợi cho tiến hóa, còn sản phẩm của quá trình chuyển gen là các tính trạng có lợi cho con người, đây là ưu điểm nổi bật nhất của công nghệ chuyển gen.
Quá trình hình thành tính trạng mới trong tự nhiên phải diễn ra hàng trăm năm, triệu năm, thậm chí hàng tỷ năm, còn quá trình hình thành tính trạng mới nhờ công nghệ chuyển gen chỉ diễn ra trong vài năm, nhờ tính ưu việt này mà chúng ta có thể rút ngắn được quá trình chọn tạo giống cây trồng mới, bổ sung các tính trạng ưu việt mới, đáp ứng tốt nhất mục tiêu chọn giống và phục vụ sản xuất.
Lịch sử
Cây trồng chuyển đổi gen được tạo ra lần đầu tiên vào năm 1982, bằng việc sử dụng loại cây thuốc lá chống kháng sinh. Những khu vực trồng thử nghiệm cây thuốc lá có khả năng chống thuốc diệt cỏ đầu tiên là ở Pháp và Hoa Kỳ vào năm 1986.
Năm 1987, Plant Genetic Systems (Ghent, Bỉ), được thành lập bởi Marc Van Montagu and Jeff Schell, là công ty đầu tiên phát triển cây trồng thiết kế gen di truyền (thuốc lá) có khả năng chống chịu côn trùng bằng cách biểu hiện các gen mã hóa protein diệt côn trùng từ vi khuẩn Bacillus thuringiensis (Bt).Trung Quốc là quốc gia đầu tiên chấp thuận cây công nghiệp chuyển đổi gen với cây thuốc lá kháng vi rút được giới thiệu lần đầu vào năm 1992, nhưng rút khỏi thị trường Trung Quốc vào năm 1997. [[Gạo vàng, một loại thực phẩm biến đổi gen có nhiều ưu điểm]]
Cây trồng biến đổi gen đầu tiên được phê chuẩn bán ở Mỹ vào năm 1994 là cà chua FlavrSavr, có thời gian bảo quản lâu hơn các loại cà chua thông thường. Năm 1994, Liên minh châu Âu phê chuẩn cây thuốc lá có khả năng chống thuốc diệt cỏ bromoxynil. Năm 1995, khoai tây Bt đã được phê duyệt an toàn bởi Cơ quan Bảo vệ môi trường, trở thành cây nông sản kháng sâu đầu tiên được phê duyệt tại Hoa Kỳ.
Các loại cây trồng chuyển đổi gen sau đó cũng được chấp thuận giao dịch ở Mỹ vào năm 1995: cải dầu với thành phần dầu chuyển đổi (Calgene), ngô bắp có vi khuẩn Bacillus thuringiensis (Bt) (Ciba-Geigy), bông kháng thuốc diệt cỏ bromoxynil (Calgene), bông kháng côn trùng (Monsanto), đậu nành kháng thuốc diệt cỏ glyphosate (Monsanto), bí kháng vi rút (Asgrow), và cà chua chín chậm (DNAP, Zeneca / Peto, và Monsanto). Tính đến giữa năm 1996 đã có tổng cộng 35 phê chuẩn được cấp cho tám loại cây công nghiệp chuyển đổi gen và một loại hoa cẩm chướng, với 8 điểm khác nhau tại 6 quốc gia cộng thêm EU.
Năm 2000, lần đầu tiên các nhà khoa học đã biến đổi gen thực phẩm để gia tăng giá trị dinh dưỡng bằng việc sản xuất ra hạt gạo vàng (Golden Rice). Đến năm 2018, một số nước đã chính thức cấp phép sử dụng Gạo vàng làm thực phẩm như Hoa Kỳ, Canada, Úc, NewZealand.... Một số nước hiện nay cũng đang tiến hành khảo nghiệm và phê duyệt để cấp phép sử dụng như Philippines, Bangladesh...
Phương pháp
Cây trồng biến đổi gen được tạo ra trong phòng thí nghiệm bằng cách thay đổi cấu trúc gen của chúng. Để làm được điều này, người ta dùng kĩ thuật di truyền thêm vào một hoặc nhiều gen trong bộ gen của cây trồng. Hai phương pháp phổ biến là phương pháp bắn gen (súng hạt) và chuyển gen gián tiếp thông qua vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens. Các nhà thực vật học, dựa vào kết quả từ nghiên cứu toàn diện mới đây về cơ cấu cây trồng, đã chỉ ra rằng cây trồng biến đổi dựa vào công nghệ biến đổi gen ít có khả năng gặp phải những đột biến không mong đợi hơn là cây trồng nhân giống thông thường. Theo nghiên cứu, thuốc lá và "Arabidopsis thaliana_ (cây có hoa nhỏ thuộc họ Cải) là những loại cây trồng biến đổi gen phổ biến nhất do được dùng phương pháp biến đổi tân tiến, tính dễ nhân giống và hệ gen được nghiên cứu kĩ. Vì vậy, chúng được dùng làm sinh vật mô hình cho các loài thực vật khác.nhỏ|Cây (_Solanum chacoense'')được chuyển đổi gen bằng vi khuẩn Agrobacterium
Ở phương pháp bắn gen, DNA được đúc trong các hạt vàng hoặc wolfram nhỏ li ti, sau đó được bắn vào mô hoặc tế bào thực vật đơn dưới áp suất cao. Các hạt DNA với tốc độ cao sẽ thâm nhập vào cả thành và màng tế bào. Sau đó, DNA tách khỏi lớp vỏ kim loại và được tích hợp vào bộ gen thực vật bên trong nhân tế bào. Phương pháp này đã được áp dụng thành công cho rất nhiều loại cây trồng, đặc biệt là thực vật một lá mầm như lúa mì hoặc ngô. Ở những cây này phương pháp chuyển gen bằng vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens thường ít hữu hiệu hơn do có thể gây ra những hư hỏng nghiêm trọng đối với mô tế bào.
Agrobacterium là ký sinh trùng thực vật tự nhiên, khả năng chuyển gen vốn có của chúng đã góp phần cung cấp phương pháp cho sự phát triển của thực vật biến đổi gen. Để tạo ra môi trường sống thích hợp cho mình, các vi khuẩn Agrobacterium chèn gen của chúng vào thân cây chủ, làm tăng nhanh tế bào thực vật ở gần mặt đất (tạo khối u sần sùi). Thông tin di truyền cho sự tăng trưởng của khối u được mã hóa trên một đoạn DNA vòng có khả năng nhân bản độc lập gọi là Ti-plasmid (trên Ti-plasmid có đoạn T-DNA). Khi một vi khuẩn lây nhiễm vào thân cây, nó chuyển đoạn T-DNA này đến một vị trí ngẫu nhiên trong hệ gen của cây đó. Điều này được ứng dụng trong công nghệ di truyền bằng cách lấy đoạn gen vi khuẩn T-DNA ra khỏi các plasmid vi khuẩn và thay thế bởi các gen mong muốn bên ngoài. Các vi khuẩn Agrobacterium sau đó hoạt động như một vector chuyển tải các gen ngoại nhập vào trong thân cây. Phương pháp này đặc biệt hữu hiệu cho cây hai lá mầm như khoai tây, cà chua và thuốc lá trong khi ít thành công ở các loại thực vật như lúa mì và ngô.
Việc đưa những gen mới vào cây trồng đòi hỏi một chất hoạt hóa cụ thể cho từng khu vực thể hiện gen. Ví dụ, nếu muốn gen chỉ biểu hiện ở hạt mà không phải lá gạo thì phải dùng chất hoạt hóa nội nhũ đặc trưng. Codon của gen cũng phải được tối ưu hóa cho sinh vật do thiên hướng sử dụng codon. Các sản phẩm chuyển hóa gen cũng nên được biến tính bằng nhiệt để triệt tiêu trong quá trình chế biến.
Các loại công nghệ gen
Tìm hiểu một số công nghệ gen hiện nay:
- Transgenic (chuyển gen giữa hai loài hoàn toàn khác nhau) là quá trình chuyển một đoạn DNA ngoại lai bằng các kỹ thuật khác nhau vào cây trồng. Các gen được đưa vào có thể đến từ các loài trong cùng giới (cây với cây) hoặc giữa các giới với nhau (ví dụ, vi khuẩn với cây trồng). Trong nhiều trường hợp DNA chèn vào phải được điều chỉnh đôi chút để biểu hiện chính xác và hiệu quả trong sinh vật chủ. Các gen được đưa vào có thể đến từ các loài trong cùng giới (cây với cây) hoặc giữa các giới với nhau (ví dụ, vi khuẩn với cây trồng). Trong nhiều trường hợp DNA chèn vào phải được điều chỉnh đôi chút để biểu hiện chính xác và hiệu quả trong sinh vật chủ. Trong phòng thí nghiệm, thực vật chuyển gen đã được biến đổi để tăng khả năng quang hợp (hiện nay là khoảng 2% ở hầu hết các cây trồng tới tiềm năng khoảng 9-10% về mặt lý thuyết). Điều này có thể thực hiện được thông qua việc chuyển hóa enzyme rubisco (tức chuyển cây C3 thành cây C4) bằng cách đặt các rubisco trong một carboxysome, thêm các ống bơm CO2 vào thành tế bào, từ đó thay đổi hình dáng/kích thước lá. Cây trồng cũng đã được nghiên cứu trong lĩnh vực phát quang sinh học mà trong tương lai có thể là một sự thay thế bền vững cho việc chiếu sáng bằng điện.
Cây trồng chuyển gen được dùng để tạo ra các protein như là Cry Toxin trong trực khuẩn Gram dương có tác dụng giết chết côn trùng, gen kháng thuốc diệt cỏ và kháng nguyên cho tiêm phòng. Cà rốt biến đổi gen đã được sử dụng để sản xuất thuốc Taliglucerase alfa điều trị bệnh Gaucher.
- Cisgenic (chuyển gen trong cùng một loài) là quá trình chuyển gen từ cùng một loài hoặc từ một loài hoặc một loài gần giống tại nơi sinh sản thực vật thông thường xảy ra. Một số nhà lai tạo và các nhà khoa học cho rằng phương pháp sửa đổi gen cisgenic là hữu ích cho các cây khó lai giống bằng các phương pháp thông thường (như khoai tây) và các cây trong thể loại cisgenic không cần phải có sự giảm siats theo quy định như chuyển gen khác loài
Trong phòng thí nghiệm, thực vật chuyển gen đã được biến đổi để tăng khả năng quang hợp (hiện nay là khoảng 2% ở hầu hết các cây trồng tới tiềm năng khoảng 9-10% về mặt lý thuyết). Điều này có thể thực hiện được thông qua việc chuyển hóa enzyme rubisco (tức chuyển cây C3 thành cây C4) bằng cách đặt các rubisco trong một carboxysome, thêm các ống bơm CO2 vào thành tế bào, từ đó thay đổi hình dáng/kích thước lá. Cây trồng cũng đã được nghiên cứu trong lĩnh vực phát quang sinh học mà trong tương lai có thể là một sự thay thế bền vững cho việc chiếu sáng bằng điện.
- Subgenic (Thế hệ con): thực vật biến đổi gen cũng có thể được phát triển bằng cách sử dụng loại bỏ gen hoặc loại bỏ gen để thay đổi cấy trúc di truyền của cây mà không kết hợp gen từ các cây khác. Năm 2014, nhà nghiên cứu Trung Quốc Gao Caixia đã nộp bằng sáng chế về việc tạo ra một chủng lúa mì có khả năng kháng bệnh phấn trắng. Chủng này thiếu các gen mã hoá các protein ức chế sự phòng vệ chống lại nấm mốc. Các nhà nghiên cứu đã xoá cả ba bản sao gen khỏi bộ gen hexaploid của lúa mì. Gao đã sử dụng các công cụ chỉnh sửa gen TELENs và CRISPR mà không cần thêm hay thay đổi bất kì gen nào khác.
Tuy nhiên các cây chuyển gen khác cũng đang được điều chỉnh để khắc phục ni tơ bao quanh thân cây. Cây chuyển gen đồng loài dùng gen trong cùng loài hoặc những loài có họ hàng gần, tương tự như phương pháp nhân giống thông thường. Một số nhà nhân giống và các nhà khoa học cho rằng biến đổi gen đồng loài sẽ rất hữu ích cho các cây trồng khó lai tạo bằng phương pháp thông thường (như khoai tây). Họ cũng nhận định rằng cây trồng chuyển gen đồng loài không nên đòi hỏi cùng một mức độ quy định pháp luật như các sinh vật biến đổi gen khác.
- Multi trait integration (Tích hợp đa tính trạng): tích hợp nhiều tính trạng vào một loài cây trồng mới
Tình hình sử dụng
Trên thế giới
Diện tích cây trồng biến đổi gen trên toàn cầu tăng đáng kể trong hơn 20 năm, từ 1,7 triệu ha vào năm 1996 lên 189,8 triệu ha vào năm 2017. Tính tới năm 2017 đã có 67 quốc gia sử dụng cây trồng BĐG, bao gồm 24 quốc gia canh tác cây trồng BĐG (19 nước đang phát triển và 5 nước công nghiệp); cùng 43 quốc gia khác (trong đó EU được tính là 1) cấp phép chính thức nhập khẩu và sử dụng cây trồng BĐG với mục đích làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi và chế biến. Báo cáo này cũng chỉ ra, tại những quốc gia đang trồng cây GMO, diện tích đang có xu hướng tăng lên sau mỗi năm. Cụ thể, tại châu Âu, bốn quốc gia là Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Séc và Slovakia đã trồng hơn 136.000 héc ta bắp biến đổi gen trong năm 2016, tăng 17% so với năm 2015.
Ở châu Phi, Nam Phi và Sudan cũng liên tiếp mở rộng diện tích bắp, đậu nành biến đổi gen và đã đạt 2,66 triệu héc ta trong năm 2016, trong khi năm 2015 mới chỉ có 2,29 triệu héc ta. Tại châu Mỹ, Brasil có diện tích canh tác bắp, đậu nành, bông và hạt cải dầu GMO tăng 11%, là nước lớn thứ 2 sau Mỹ về diện tích trồng GMO.
Nhiều khả năng diện tích trồng cây GMO sẽ còn tiếp tục tăng trong những năm tới khi một số nước đang có kế hoạch đưa cây mía GMO vào trồng, đáng chú ý là khu vực ASEAN có Indonesia.
Diện tích canh tác ở các nước đang phát triển đang ngày càng được mở rộng. Tỷ trọng diện tích canh tác cây trồng CNSH của nông dân Mỹ La tinh, châu Á và châu Phi lên tới 54% trong tổng diện tích canh tác cây trồng CNSH toàn cầu (tăng 2% so với năm 2012), do đó làm gia tăng chênh lệch về diện tích canh tác giữa các nước công nghiệp và các nước đang phát triển từ khoảng 7 triệu năm 2012 lên đến 14 triệu ha vào năm 2013. Tính chung Nam Mỹ đã trồng 70 triệu ha hoặc chiếm 41%; châu Á trồng 20 triệu ha, chiếm 11%; và châu Phi trồng hơn 3 triệu ha, chiếm 2% diện tích canh tác cây trồng CNSH toàn cầu.
Các giống đậu nành BĐG chiếm 50% diện tích canh tác cây trồng CNSH trên thế giới. Xét trên diện tích canh tác của từng loại cây trồng riêng lẻ, 77% diện tích trồng đậu nành, 80% diện tích trồng bông, 32% diện tích trồng ngô và 30% diện tích trồng hạt cải dầu năm 2017 là các giống BĐG.
Các quốc gia trồng đậu nành BĐG với tỷ lệ lên đến hơn 90% bao gồm Hoa Kỳ, Brazil, Argentina, Paraguay, Nam Phi, Bolivia và Uruguay. Khoảng 90% ngô BĐG được canh tác tại Mỹ, Brazil, Argentina, Canada, Nam Phi và Uruguay. Hơn 90% bông BĐG được trồng tại Mỹ, Argentina, Ấn Độ, Paraguay, Pakistan, Trung Quốc, Mexico, Nam Phi và Australia. Hoa Kỳ và Canada trồng hạt cải dầu BĐG với tỷ lệ ứng dụng là 90%. Quan trọng hơn, các quốc gia này cũng là cũng là nơi xuất khẩu thực phẩm chính tới các khu vực của thế giới, bao gồm các nước đang phát triển lớn.
Tại Trung Quốc, cây bông CNSH ở Trung Quốc đã đem lại lợi ích kinh tế trên 15 tỷ USD trong vòng 12 năm từ năm 1996 đến năm 2012. Trung Quốc hiện nay là nhà nhập khẩu đậu nành và hạt cải dầu biến đổi gen hàng đầu. Đầu năm 2019, Trung Quốc đã cho phép nhập khẩu 5 mặt hàng nông sản biến đổi gen, được công bố trên trang web của Bộ nông nghiệp Trung Quốc. Các sản phẩm được thông qua gồm ngô DP4114 Qrome và đậu nành DAS-44406-6 của công ty DowDuPont, đậu nành đậu nành SYHT0H2 do Bayer CropScience và Syngenta - hiện quyền sở hữu của công ty hóa chất Đức BASF - phát triển. Hai sản phẩm còn lại gồm hạt cải dầu RF 3 của BASF và hạt cải dầu MON 88302 của công ty Monsanto. Theo Reuters, hai mặt hàng này đã phải chờ 6 năm để được cấp phép.
Năm 2018, Chính phủ Bangladesh đã phê duyệt cho canh tác các giống lúa gạo biến đổi gen đầu tiên với tên gọi BRRIdhan-86 nhằm phát triển ngành trồng trọt – một trọng tâm hướng tới xây dựng Bangladesh thịnh vượng tới năm 2021. Giống mới này được kỳ vọng sẽ giúp tăng thêm khoảng 0,5 tấn gạo thu hoạch trên mỗi ha so với giống lúa phổ biến được trồng rộng rãi nhất hiện nay tại quốc gia này, đồng thời cũng sẽ giúp nông dân tiết kiệm được công lao động và thu hoạch dễ dàng hơn bằng máy gặt so với các giống lai truyền thống.
Không chỉ có Bangladesh chấp nhận trồng gạo GMO mà cả những quốc gia có nền kinh tế phát triển như Úc và New Zealand cũng bắt đầu cấp phép cho dòng sản phẩm này. Cụ thể, vào cuối tháng 2/2018, trong thông báo liên bang, Úc đã phê duyệt để đưa giống gạo vàng giàu vitamin A (GR2E) vào Danh mục Chuẩn thực phẩm của Úc - NewZealand.
Việt Nam
Tình hình thực tế
Cây trồng biến đổi gen có thể là câu trả lời cho rất nhiều vấn đề nan giải mà ngành nông nghiệp Việt Nam đang gặp phải. Tính đến thời điểm này ngô vẫn là một trong những mặt hàng nông sản được nhập khẩu nhiều nhất vào Việt Nam trong 10 năm trở lại đây với sản lượng liên tục tăng từ 4.4 triệu tấn năm 2014 lên 8.3 triệu tấn năm 2017. Đáng chú ý là nguồn nhập khẩu ngô của Việt Nam chủ yếu có xuất xứ từ thị trường Brasil, Argentina, Mỹ, Ấn Độ, Thái Lan (chiếm tới hơn 90%), những nước có diện tích trồng cây biến đổi gen lớn nhất thế giới.
Để hạn chế thực trạng nhập khẩu loại thực phẩm này, việc đưa ngô biến đổi gen vào đã trở thành chủ trương và theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, sau gần 4 năm cấp phép, diện tích canh tác ứng dụng ngô chuyển gen tại Việt Nam mỗi năm tăng từ 12,5 ngàn ha năm 2015 đến khoảng 28,5 ngàn ha năm 2018.
Theo tính toán, lợi nhuận thu được từ việc trồng giống ngô chuyển gen là 30.1920.000 đồng/ha so với giống ngô thường là 22.195.000 đồng/ha. Chênh lệch lợi nhuận giữa trồng ngô chuyển gen và ngô thường là 7.997.000 đồng/ha. Ứng dụng giống ngô chuyển gen đã giúp giảm được nhân công và chi phí làm cỏ kết hợp với năng suất tăng vì thế đã hạ giá thành sản phẩm làm hiệu quả sản xuất ngô được nâng cao rõ rệt.
Theo báo cáo của Chi Cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật tỉnh Thái Nguyên, năng suất thực thu của ngô biến đổi gen so với ngô lai thường trong cùng một điều kiện canh tác, khí hậu, chế độ chăm sóc, bón phân.... có những chênh lệch về thu nhập. Cụ thể, năng suất trung bình của ngô biến đổi gen (giống NK4300 Bt/GT) đạt 7.582 kg/ha trong khi đó giống ngô thường (NK4300) chỉ đạt 6.580 kg/ha - tức ngô biến đổi gen cho năng suất cao hơn 15% so với ngô thường.
Lượng nhập khẩu đậu nành, ngô… từ các thị trường có diện tích cây trồng biến đổi gen lớn như Bắc Mỹ, châu Âu mỗi năm đều rất lớn. Hầu hết, các sản phẩm này phục vụ cho chăn nuôi và gieo trồng nông nghiệp.
Nhiều chuyên gia cho biết: Thực phẩm biến đổi gen đã có mặt khá lâu trên thị trường Việt Nam, hầu hết người dân nào cũng đã dùng qua những sản phẩm này. Tuy nhiên có một thực tế là không phải người tiêu dùng nào cũng có những hiểu biết cần thiết về loại thực phẩm mà họ đang sử dụng. Theo quy định hiện hành, thực phẩm biến đổi gen bao gói sẵn có ít nhất một thành phần nguyên liệu biến đổi gen lớn hơn 5% tổng nguyên liệu được sử dụng đều phải ghi nhãn khi lưu thông tại thị trường Việt Nam.
Kể từ khi thông tư này có hiệu lực, những thực phẩm biến đổi gen đang lưu thông trên thị trường sẽ buộc phải ghi nhãn theo quy định. Các thực phẩm biến đổi gen không ghi nhãn theo quy định sẽ không được tiếp tục sản xuất và nhập khẩu sau 8/1.
Tuy nhiên, quy định trên đây chỉ áp dụng đối với những mặt hàng đóng gói sẵn. Các thực phẩm tươi sống, thực phẩm chế biến nhưng không bao gói không thuộc phạm vi quy định này.
Hành lang pháp lý
Tại Việt Nam, cây trồng biến đổi gen đã được đầu tư nghiên cứu và khảo nghiệm từ năm 2006 sau khi "Chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020" được phê duyệt tại Quyết định số 11/2006/QĐ-TTg. Vào năm 2011, việc đưa ngô biến đổi gen vào sản xuất thương mại tại Việt Nam được dự kiến triển khai vào năm 2012 sau hai đợt khảo nghiệm trên diện rộng. Đến 2013, Bộ NN&PTNT đã công nhận kết quả khảo nghiệm 5 giống ngô biến đổi gen để trình Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép an toàn sinh học.
Thời gian qua, Bộ NN&PTNT đã ban hành hàng loạt nghị định, thông tư để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học như Nghị định số 69/2010/NĐ-CP về an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gien, mẫu vật di truyền và sản phẩm của sinh vật biến đổi gien; Quyết định số 418/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển KH và CN giai đoạn 2011 - 2020; Thông tư 72/2009/TT-BNNPTNT ngày 17 tháng 11 năm 2009 ban hành danh mục loài cây trồng biến đổi gen được phép khảo nghiệm đánh giá rủi ro đối với đa dạng sinh học và môi trường cho mục đích làm giống cây trồng ở Việt Nam.
Bộ TN-MT đã ban hành Thông tư số 08/2013/TT-BTNMT ngày 16/5/2013 về Đánh giá an toàn sinh học đối với cây trồng biến đổi gen, trong đó quy định thành lập Tổ chuyên gia có trách nhiệm hỗ trợ kỹ thuật cho Hội đồng ATSH đối với từng sự kiện biến đổi gen cụ thể; Thông tư số 02/2014/TT-BNNPTNT ngày 24/1/2014 quy định trình tự, thủ tục cấp và thu hồi giấy xác nhận thực vật biến đổi gen đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi.
Đặc biệt ngày 11 tháng 8 năm 2014, Bộ NN & PTNN chính thức công bố cấp phê duyệt 04 sự kiện ngô biến đổi gen đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi. Các sự kiện được phê duyệt lần này bao gồm sự kiện Bt 11 và MIR162 của công ty TNHH Syngenta Việt Nam và MON 89034 (Bộ TNMT cấp Giấy chứng nhận ATSH vào ngày 27 tháng 8 năm 2014) và NK603 của công ty TNHH Dekalb Việt Nam (Monsanto). Giấy xác nhận phê duyệt được ban hành sau quá trình xem xét kỹ lưỡng và được chấp thuận bởi Hội đồng An toàn Thực phẩm và Thức ăn chăn nuôi biến đổi gen là không có bất kỳ ảnh hưởng bất lợi nào đối với con người và vật nuôi theo đúng trình tự được quy định theo thông tư 02/2014/TT-BNNPTNT. Đây là 4 sự kiện biến đổi gen đầu tiên được công nhận đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi tại Việt Nam.
Đến năm 2019, Bộ NN & PTNN đã cấp Giấy xác nhận đủ điều kiện làm Thực phẩm/Thức ăn chăn nuôi cho gần 30 sự kiện biến đổi gen trên cây trồng ngô và đậu tương. Giấy xác nhận phê duyệt được ban hành sau quá trình xem xét kỹ lưỡng và được chấp thuận bởi Hội đồng An toàn Thực phẩm và Thức ăn chăn nuôi biến đổi gen là không có bất kỳ ảnh hưởng bất lợi nào đối với con người và vật nuôi theo đúng trình tự được quy định theo thông tư 02/2014/TT-BNNPTNT. Đồng thời, các sự kiện đều đã được phê duyệt tại ít nhất 5 quốc gia thuộc khối OECD trước đó. Đây được xem như một "hàng rào kép" giúp quản lý và đảm bảo tính an toàn của các sản phẩm biến đổi gen, trước khi đến tay người sử dụng tại Việt Nam.
Ngày 3 tháng 11 năm 2014, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Quyết định số 2485 và 2486/QĐ-BTNMT cấp Giấy chứng nhận an toàn sinh học cho ngô biến đổi gen mang sự kiện GA21 và NK603. Các sự kiện ngô biến đổi gen được cấp Giấy chứng nhận an toàn sinh học nêu trên đều mang đặc tính chống chịu thuốc trừ cỏ.
Đồng thời, cũng theo các quy định về an toàn sinh học, cho tới nay Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cấp 05 Giấy chứng nhận an toàn sinh học cho 5 sự kiện ngô biến đổi gen với các tính trạng kháng sâu và chống chịu thuốc trừ cỏ được phép canh tác tại Việt Nam.
Đến năm 2019, Bộ NN & PTNN đã cấp Giấy xác nhận đủ điều kiện làm Thực phẩm/Thức ăn chăn nuôi cho gần 30 sự kiện biến đổi gen trên cây trồng ngô và đậu tương. Giấy xác nhận phê duyệt được ban hành sau quá trình xem xét kỹ lưỡng và được chấp thuận bởi Hội đồng An toàn Thực phẩm và Thức ăn chăn nuôi biến đổi gen là không có bất kỳ ảnh hưởng bất lợi nào đối với con người và vật nuôi theo đúng trình tự được quy định theo thông tư 02/2014/TT-BNNPTNT. Đồng thời, các sự kiện đều đã được phê duyệt tại ít nhất 5 quốc gia thuộc khối OECD trước đó. Đây được xem như một "hàng rào kép" giúp quản lý và đảm bảo tính an toàn của các sản phẩm biến đổi gen, trước khi đến tay người sử dụng tại Việt Nam.
Đồng thời, cũng theo các quy định về an toàn sinh học, cho tới nay Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cấp 05 Giấy chứng nhận an toàn sinh học cho 5 sự kiện ngô biến đổi gen với các tính trạng kháng sâu và chống chịu thuốc trừ cỏ được phép canh tác tại Việt Nam.
- Việc mở rộng diện tích ứng dụng CNSH đã đồng thời giúp cải thiện tình trạng sụt giảm dinh dưỡng trên cây trồng nhờ đưa vào các tính trạng dinh dưỡng có lợi. Ngoài ra, giá trị dinh dưỡng cây trồng cũng có thể được cải thiện khi thêm vào các tính trạng dinh dưỡng có lợi trên gạo, chuối, khoai tây, lúa mỳ, đậu gà, đậu triều và mù tạt, từ đó đem lại lợi ích cho người tiêu dùng và các nhà sản xuất thực phẩm. Các nghiên cứu cho thấy biến đổi khí hậu có thể dẫn tới sụt giảm hàm lượng protein, kẽm và sắt trong các cây trồng chủ lực - đặt 1,4 triệu trẻ em vào nguy cơ thiếu sắt nghiêm trọng vào năm 2050. Báo cáo năm 2017 của ISAAA cũng cho thấy có nhiều hơn những sản phẩm CNSH được thương mại hóa với những lợi ích trực tiếp đối với người tiêu dùng. Hai thế hệ khoai tây Innate® đã được cấp phép tại Mỹ và Canada: một với tính trạng giảm thâm và chống đốm nâu cùng hàm lượng acrylamide thấp, và một với các tính trạng nói trên kết hợp cùng mức độ đường khử thấp và kháng bệnh mốc sương; giống táo không thâm Arctic® tại Mỹ và giống cà tím kháng sâu tại Bangladesh. Đây đều là những sản phẩm mang lại lợi ích bền vững hơn cho người tiêu cùng cũng như cho môi trường. Năm 2011, một báo cáo với tên gọi "10 năm nghiên cứu Sinh vật Biến đổi gen" được bảo trợ bởi Cộng đồng chung Châu Âu (EU) với nguồn kinh phí khoảng 200 triệu Euro được xuất bản. Đây là một báo cáo toàn diện, cung cấp thêm thông tin cho những tranh cãi liên quan đến vấn đề BĐG khi các kết quả khoa học và nghiên cứu đánh giá của các cơ quan có thẩm quyền được công bố. Trong suốt hơn 25 năm qua, có khoảng 500 nhóm nghiên cứu độc lập đã tham gia vào dự án này. Theo kết quả của dự án, tính đến thời điểm hiện tại, KHÔNG có bất cứ bằng chứng khoa học cho thấy mối liên hệ giữa sinh vật BĐG với những rủi ro lớn hơn đối với môi trường, và sự an toàn của thực phẩm, thức ăn chăn nuôi so với các sinh vật và cây trồng truyền thống. Vào năm 2016, hơn 100 học giả đoạt giải Nobel đã cùng ký bức thư ngỏ kêu gọi Tổ chức Greenpeace (Hoà bình xanh) thay đổi quan điểm, ngưng các hoạt động phản đối thực phẩm biến đổi gen (BĐG). Bức thư có viết: "Chúng tôi kêu gọi Greenpeace nhanh chóng tái đánh giá những trải nghiệm của nông dân và người tiêu dùng trên toàn thế giới về những cây trồng, thực phẩm được cải tiến bởi công nghệ sinh học, công nhận những phát hiện nghiên cứu của các tổ chức khoa học có thẩm quyền và cơ quan chức năng, và ngừng chiến dịch chống lại cây trồng BĐG (GMO) nói chung và giống lúa/gạo Vàng (Golden rice) nói riêng". Bức thư cũng đề cập: "Các tổ chức khoa học và cơ quan chức năng trên thế giới liên tục khẳng định chắc chắn sự an toàn của cây trồng và thực phẩm có sự can thiệp của công nghệ sinh học, nếu không muốn nói là an toàn hơn bất cứ phương pháp nuôi trồng nào khác. Đến nay, chưa có bất kỳ trường hợp được xác thực nào xác minh những hệ quả xấu cho sức khoẻ từ việc tiêu thụ sản phẩm BĐG của người và động vật. Cả vấn đề môi trường, cây trồng BĐG cũng được chứng minh rất ít gây ảnh hưởng tiêu cực, không những thế còn đóng góp lợi ích vào hệ sinh thái đa dạng toàn cầu". *Báo cáo "Mức độ phổ biến và tác động của thức ăn chăn nuôi biến đổi gen lên động vật" xuất bản vào năm 2014 đã dựa trên các dữ liệu của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) trên hơn 100 tỉ động vật được nuôi bằng thức ăn có thành phần từ cây trồng biến đổi gen, kết luận: không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy cây trồng biến đổi gen gây tác động tiêu cực đối với sức khỏe vật nuôi.
- Tất cả các nước đang phát triển đã được hưởng lợi từ công nghệ sinh học thông qua việc nhập khẩu hàng hóa rẻ hơn, mức độ độc tố mycotoxin thấp hơn và năng suất cây trồng cao hơn và sạch hơn để trồng trong nước. Các nước đã phát triển cây trồng công nghệ sinh học cũng được hưởng lợi từ việc giảm sử dụng hóa chất, năng suất cao hơn và nông nghiệp mang tính cạnh tranh hơn, xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp biến đổi gen mang một nguồn thu ổn định và giải quyết vấn đề việc làm cho một bộ phận lớn người dân các nước này. Người nông dân tại các quốc gia đang phát triển chính là đối tượng thụ hưởng lợi của những ích lợi đang ngày càng gia tăng này. Môi trường cũng được bảo vệ tốt hơn nhờ việc nông dân ngày càng áp dụng phương pháp canh tác ít ảnh hưởng đến lớp đất phủ, quản lý cỏ dại bằng cách sử dụng các thuốc diệt cỏ lành tính và giảm thiểu lượng thuốc trừ sâu sử dụng nhờ ứng dụng cây trồng biến đổi gen kháng sâu hại. Việc giảm phun thuốc trừ sâu và chuyển đổi sang phương thức canh tác "không làm đất" ngày càng đóng vai trò tích cực trong giảm hiệu ứng nhà kính gây ra do canh tác nông nghiệp. *Có nhiều thông tin cho rằng, Châu Âu là nơi cấm thực phẩm biến đổi gen. Tuy nhiên trên thực tế, Châu Âu là nơi vừa cho phép sử dụng các sản phẩm biến đổi gen, vừa cho phép canh tác một số cây trồng biến đổi gen. Châu Âu có một hệ thống pháp luật quy định việc nhập khẩu, phát triển và thương mại hóa các loại cây trồng và thực phẩm công nghệ sinh học/ cây trồng biến đổi gen. Mỗi năm châu lục này đang nhập hơn 30 triệu tấn đậu nành công nghệ sinh học từ Mỹ và Nam Mỹ để sử dụng làm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi. Bên cạnh đó, Tây Ban Nha là một nước đã canh tác ngô biến đổi gen hơn 20 năm qua.
Bên cạnh những lợi ích cơ bản của cây trồng biến đổi gen, theo một vài nhà khoa học thế giới, thì loại thực phẩm này cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ ảnh hưởng lâu dài tới sức khỏe cộng đồng, môi trường.
Tranh cãi về ảnh hưởng đối với môi trường
- Cây trồng biến đổi gen mang các yếu tố chọn lọc (chịu lạnh, hạn, mặn hay kháng sâu bệnh…) phát triển tràn lan trong quần thể thực vật. Có một số quan ngại cho rằng điều này có thể dẫn đến mất cân bằng hệ sinh thái và làm giảm tính đa dạng sinh học của loài cây được chuyển gen. Tuy nhiên cho tới nay chưa có bằng chứng cho thấy cây trồng biến đổi gen là "nguy hại" hơn đối với môi trường và cân bằng sinh thái, so với cây trồng truyền thống hoặc cây trồng hữu cơ. Một nghiên cứu được tiến hành bởi các nhà khoa học nhà khoa học Tony Conner và Glare Travis người New Zealand và Jan-Peter Nap người Hà Lan đã xem xét 250 tài liệu nghiên cứu đã công bố về một loạt các tác động lên môi trường, về "quá trình tạo cỏ dại", về quá trình chuyển dòng gen ngang, sinh thái học, đa dạng sinh học và các mối quan tâm khác về công nghệ gen, họ đã kết luận rằng nhiều vấn đề được đặt ra phản bác cây trồng công nghệ sinh học thực ra không tồn tại, và những vấn đề đó đều có thể diễn ra như nhau ở cây trồng truyền thống và cả cây trồng hữu cơ.
- Cây trồng biến đổi gen mang các gen kháng thuốc diệt cỏ có thể thụ phấn với các cây dại cùng loài hay có họ hàng gần gũi, làm lây lan gen kháng thuốc diệt cỏ trong quần thể thực vật. Việc gieo trồng cây trồng biến đổi gen kháng sâu bệnh trên diện rộng, ví dụ, kháng sâu đục thân, có thể làm phát sinh các loại sâu đục thân mới kháng các loại cây trồng biến đổi gen này. Việc sử dụng thuốc trừ sâu sinh học Bt đã cho phép phòng trừ hiệu quả sâu bệnh, nhưng sau 30 năm sử dụng, một số loại sâu bệnh đã trở nên nhờn thuốc ở một vài nơi
- Ngoài ra, một bộ phận các nhà khoa học lo ngại đến khả năng chuyển gen từ cây trồng vào các vi khuẩn trong đất. Tuy nhiên, khả năng xảy ra điều này là vô cùng nhỏ. Hiện nay, các chuyên gia CNSH đang cố gắng giảm thiểu các rủi ro nêu trên và theo dõi cẩn thận các thử nghiệm cây trồng biến đổi gen trong phòng thí nghiệm, cũng như ngoài đồng ruộng trước khi đưa ra thị trường thương mại. Nếu được thiết kế và sử dụng đúng phương pháp thì có thể quản lý được các nguy cơ của cây trồng biến đổi gen đối với môi trường một cách hiệu quả.
Phản đối
Có nhiều tranh cãi về GMO, đặc biệt là về việc chúng được trồng bên ngoài môi trường phòng thí nghiệm. Tranh cãi liên quan đến người tiêu dùng, nhà sản xuất, các công ty công nghệ sinh học, các cơ quan quản lý của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và các nhà khoa học. Nhiều mối quan tâm trong số này liên quan đến việc cây trồng biến đổi gen và thực phẩm sản xuất từ chúng liệu có an toàn hay không, và tác động của việc trồng cây biến đổi gien lên môi trường. Những tranh cãi này đã dẫn đến kiện tụng, tranh chấp thương mại quốc tế, và phản đối, và hạn chế đối với các sản phẩm thương mại quy định ở một số quốc gia. Hầu hết các phản đối xoay quanh ảnh hưởng đến sức khỏe và môi trường của GMO. Những điều này bao gồm liệu chúng có thể gây ra phản ứng dị ứng hay không, liệu gen đột biến có thể chuyển sang tế bào người hay không và các gen không thể được hấp thụ bởi con người có nguy cơ xâm nhập vào chuỗi cung ứng thực phẩm
thumb|upright|Người biểu tình phản đối cây trồng biến đổi gen (GMO)
Ngoài ra, cũng theo nhiều chuyên gia, nếu trồng đại trà thực phẩm biến đổi gene thì một số lợi ích kinh tế có thể bị nguy hại, như người nông dân bị ép giá do lệ thuộc vào các công ty cung ứng giống, môi trường nông nghiệp bị biến đổi, những công ty xuyên quốc gia trong lĩnh vực này đang sử dụng cây giống biến đổi gen nhằm khiến cho nông dân ngày càng phụ thuộc vào họ để đạt mục tiêu lợi nhuận
Có một sự đồng thuận khoa học Tuy nhiên, trong 2 thập kỷ kể từ đó, một số ví dụ như vậy đã được quan sát thấy. Trao đổi gen giữa cây trồng biến đổi gen và cây trồng tương thích, cùng với việc tăng cường sử dụng thuốc diệt cỏ đã ngày càng mở rộng có thể làm tăng nguy cơ kháng thuốc diệt cỏ ở quần thể các loài cỏ dại. Tranh luận về mức độ và hậu quả của dòng gen đột biến đã diễn ra gay gắt vào năm 2001, khi một bài báo được xuất bản cho thấy gen biến đổi đã được tìm thấy trong cây ngô tự nhiên ở Trung tâm đa dạng sinh học tại Mexico. Dòng gen từ cây trồng biến đổi gen chuyển sang các sinh vật khác nói chung thường thấp hơn so với những gì xảy ra tự nhiên. Để giải quyết một số mối lo ngại này, một số GMO đã được phát triển với các đặc điểm để giúp kiểm soát sự lan rộng của chúng. Ví dụ: để ngăn cá hồi biến đổi gen vô tình sinh sản với cá hồi hoang dã, tất cả cá được nuôi làm thực phẩm đều là cá cái, tam bội, 99% là vô sinh về mặt sinh sản và được nuôi ở những khu vực mà cá hồi sổng chuồng sẽ không thể sống sót.<!-- Vi khuẩn cũng đã được biến đổi gen để phụ thuộc vào các chất dinh dưỡng không thể tìm thấy trong tự nhiên, và công nghệ hạn chế sinh sản đã được phát triển, mặc dù chưa được đưa ra thị trường, khiến thế hệ thứ hai của cây biến đổi gen sẽ trở nên vô sinh.
Các mối quan tâm khác về môi trường và nông học bao gồm giảm đa dạng sinh học, gia tăng các loài gây hại thứ cấp và thúc đẩy sự tiến hóa của côn trùng gây hại kháng thuốc trừ sâu. Ở các khu vực của Trung Quốc và Hoa Kỳ với cây trồng biến đổi gien, sự đa dạng sinh học tổng thể của côn trùng đã tăng lên và tác động của các loài gây hại thứ cấp là rất ít. Tác động của cây trồng biến đổi gien đối với các sinh vật không phải mục tiêu gây hại đã trở thành một vấn đề tranh cãi công khai, sau khi một bài báo năm 1999 cho rằng chúng có thể gây độc cho bướm vua.
Các cáo buộc rằng các nhà khoa học đang cố "đóng vai Thượng Đế" và vấn đề tôn giáo đã được gán cho công nghệ này ngay từ đầu. Với khả năng biến đổi gen, có những lo ngại về đạo đức rằng công nghệ này sẽ tiến xa đến mức nào, hoặc liệu nó có nên được sử dụng hay không. Nhiều cuộc tranh luận xoay quanh ranh giới giữa điều trị và tăng cường gen, và liệu các sửa đổi này có nên được kế thừa hay không. Các mối quan tâm khác bao gồm sự suy giảm của nguồn cung cấp thực phẩm không biến đổi gen, sự nghiêm ngặt của quy trình quản lý, củng cố quyền kiểm soát nguồn cung cấp thực phẩm cho các công ty sản xuất và bán GMO, hoặc lo ngại về việc sử dụng thuốc diệt cỏ có glyphosate. Các vấn đề khác được nêu ra bao gồm việc khó xác định cha mẹ sinh học và việc sử dụng các quyền sở hữu trí tuệ.
Có sự khác biệt lớn trong sự chấp nhận của người tiêu dùng đối với GMO, người châu Âu có nhiều khả năng nhìn nhận thực phẩm biến đổi gen một cách tiêu cực hơn so với người Bắc Mỹ. GMOs xuất hiện khi niềm tin của công chúng vào an toàn thực phẩm đang suy giảm, do các mối đe dọa thực phẩm gần đây như Bệnh bò điên và các vụ bê bối khác liên quan đến quy định của chính phủ đối với các sản phẩm ở Châu Âu Điều này cùng với các chiến dịch do nhiều tổ chức phi chính phủ (NGO) thực hiện đã rất thành công trong việc ngăn chặn hoặc hạn chế việc sử dụng cây trồng biến đổi gen. Các tổ chức phi chính phủ như Hiệp hội người tiêu dùng hữu cơ Tổ chức Hòa bình xanh và các nhóm khác cho rằng rủi ro của GMO là chưa được xác định và quản lý đầy đủ và có những câu hỏi chưa được giải đáp liên quan đến tác động lâu dài có thể xảy ra đối với sức khỏe con người từ thực phẩm có nguồn gốc biến đổi gien. Họ đề xuất ghi nhãn bắt buộc với loại sản phẩm này hoặc ra lệnh cấm đối với các sản phẩm như vậy.