✨Cautleya

Cautleya

Cautleya là một chi thực vật trong họ Zingiberaceae. Nó được Joseph Dalton Hooker hợp thức hóa năm 1888, trên cơ sở nâng cấp tổ Cautlea của chi Roscoea do George Bentham thiết lập năm 1883 Năm 1839, John Royle lần đầu tiên đề xuất tên chi là Cautlea, để vinh danh bạn ông là đại úy Proby Cautley (1802-1871), kỹ sư kiêm nhà cổ sinh vật học và là người chịu trách nhiệm về các công trình thủy lợi trên diện rộng ở miền bắc Ấn Độ trong thời kỳ Công ty Đông Ấn cai trị Ấn Độ (1757-1858) và Raj thuộc Anh (1858-1947). Tuy nhiên, như Royle viết thì vì chiều theo ý của các bạn bè là các nhà thực vật học ông đã đặt loài do ông mô tả vào chi Roscoea, với tên gọi khoa học R. lutea. (R. lutea hiện nay được coi là đồng nghĩa của R. gracilis của Smith, và đều là đồng nghĩa của danh pháp chính thức Cautleya gracilis).

Mặc dù có quan hệ họ hàng gần nhưng CautleyaRoscoea có thể phân biệt được theo một số cách. Các lá của Cautleya có phiến lá được tách khỏi bẹ bằng một cuống lá, đôi khi rất ngắn, trong khi các phiến của lá Roscoea thì liên tục với bẹ lá. Các lá bắc bao quanh hoa có màu sắc rực rỡ, thường là màu đỏ ở Cautleya, trong khi chúng không có màu sắc rực rỡ ở Roscoea. Hạt của Cautleya có màu đỏ, xám hoặc đen, và chỉ có một áo hạt mỏng (hoặc không có); trong khi hạt của Roscoea có màu xanh lục đến nâu và có áo hạt mọng thịt dễ thấy. Cách sắp xếp hoa cũng khác nhau. Ở Cautleya, các hoa được xếp cách nhau dọc theo cành hoa ở một mức độ nào đó, trong khi chúng mọc gần nhau thành một "đầu hoa" dày đặc ở Roscoea.

  • Cautleya gracilis (Sm.) Dandy, 1932: Loài điển hình - Miền bắc Ấn Độ (Assam, Kashmir, Sikkim), trung nam Trung Quốc (Tứ Xuyên, Tây Tạng, Vân Nam), Bhutan, Myanmar, Nepal, Thái Lan, Việt Nam. Tại Việt Nam gọi là cầu ly, tìm thấy ở Sa Pa.
  • Cautleya spicata (Sm.) Baker, 1890 - Miền bắc Ấn Độ (Assam, Sikkim, Uttarakhand), trung nam Trung Quốc (Quý Châu, Tây Tạng, Tứ Xuyên, Vân Nam), Bhutan, Myanmar, Nepal. Theo Phạm Hoàng Hộ (1999) thì loài này cũng có ở Việt Nam, nhưng không chỉ ra địa điểm phát hiện.

Bản công bố năm 1994 của Flora of China công nhận C. cathcartii là một loài, trong khi WCSP và POWO coi nó như là đồng nghĩa của C. gracilis var. robusta, theo Auvray & Newman (2010).

Mô tả

Các loài Cautleya mọc từ các thân rễ ngắn có rễ mập nhiều thịt. Chúng có các "thân giả" được hình thành từ các bẹ lá quấn chặt sát gốc vào nhau. Tùy từng loài, các thân giả có thể cao . Các lá riêng lẻ bao gồm một bẹ và một phiến lá. Ở phần tiếp giáp của bẹ và phiến lá có một cuống lá, có thể rất ngắn hoặc không có.

C. gracilis var. gracilis có phân bố rộng nhất, xuất hiện trong khu vực từ dãy Himalaya phía bắc Ấn Độ và Nepal, qua các vùng núi ở Myanmar, Trung Quốc (Tây Tạng, Vân Nam) và Thái Lan đến miền bắc Việt Nam. Các đơn vị phân loại khác có sự phân bố tương tự, nhưng C. gracilis var. robusta không thấy có ở Myanmar, Thái Lan hoặc Việt Nam còn C. spicata cũng không được tìm thấy ở Thái Lan hay miền bắc Việt Nam.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Cautleya_** là một chi thực vật trong họ Zingiberaceae. Nó được Joseph Dalton Hooker hợp thức hóa năm 1888, trên cơ sở nâng cấp tổ _Cautlea_ của chi _Roscoea_ do George Bentham thiết lập năm
**_Cautleya spicata_** là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. ## Phân loại _C. gracilis_ được James Edward Smith mô tả lần đầu tiên năm 1822 dưới danh pháp _Roscoea spicata_. Năm 1890,
**_Cautleya petiolata_** là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Baker mô tả khoa học đầu tiên năm 1890.
**_Cautleya cathcartii_** là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Baker mô tả khoa học đầu tiên năm 1890.
**Cầu ly** ## Phân loại _C. gracilis_ được James Edward Smith mô tả lần đầu tiên năm 1822 dưới danh pháp _Roscoea gracilis_. Năm 1932, James Edgar Dandy chuyển nó sang chi _Cautleya_. _Roscoea elatior_
**_Roscoea_** là một chi thực vật trong họ Zingiberaceae. Nó được James Edward Smith mô tả chính thức năm 1806. Các loài trong chi này là cây thân thảo lâu năm, bản địa khu vực
**Họ Gừng** (danh pháp khoa học: **Zingiberaceae**), là một họ của thảo mộc sống lâu năm với các thân rễ bò ngang hay tạo củ, bao gồm 47-56 chi và khoảng 1.075-1.600 loài. Nhiều loài
**_Zingiber phumiangense_** là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Arunrat Chaveerach và Piya Mokkamul mô tả khoa học đầu tiên năm 2007. ## Mẫu định danh Mẫu định danh: