Lớp tàu sân bay hộ tống _Bogue_ là một nhóm các tàu sân bay hộ tống được chế tạo tại Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai để phục vụ cho Hải quân Hoa Kỳ cũng như cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn.
Nguồn gốc
Lớp tàu sân bay hộ tống Bogue được chế tạo dựa trên lườn của loại tàu chở hàng Kiểu C3 của Ủy ban Hàng hải Hoa Kỳ; đa số được chế tạo tại xưởng đóng tàu của hãng Seattle-Tacoma Shipbuilding Corporation, nhưng một số kiểu mẫu ban đầu còn được chế tạo bởi Ingalls Shipbuilding ở Pascagoula, Mississippi và bởi Western Pipe and Steel Company tại San Francisco thuộc California. Tất cả chúng đều được đặt tên theo các eo biển, và đều được trang bị cần trục để thu hồi thủy phi cơ.
Chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh
Đa số những chiếc trong lớp được chuyển sang phục vụ trong Hải quân Hoàng gia Anh theo những điều khoản của Chương trình Cho thuê-Cho mượn, và được hoàn trả cho Hoa Kỳ sau khi chiến tranh kết thúc. Nhóm tàu sân bay hộ tống đầu tiên được chuyển cho Anh được Hải quân Hoàng gia đặt tên là lớp _Attacker_, và được đặt lại những cái tên Anh; những chiếc được đóng mới để thay thế chỗ của chúng và mang trở lại những cái tên cũ để hoạt động cùng hạm đội Mỹ. Một nhóm thứ hai được chế tạo và hầu như gửi toàn bộ cho Hải quân Hoàng gia, được người Anh gọi là lớp Ameer hay lớp _Ruler_, đôi khi được gọi là lớp Prince William trong Hải quân Mỹ.
Khi được chuyển giao, các tàu sân bay này đòi hỏi phải được cải biến để phù hợp với những tiêu chuẩn của Hải quân Hoàng gia, và trên một số chiếc, các công việc cải biến ban đầu được thực hiện tại Burrards ở Vancouver thuộc Canada. Những công việc này bao gồm việc kéo dài sàn đáp, trang bị các thiết bị điều khiển bay và dẫn đường được thiết kế lại, cải tiến hầm chứa máy bay, chỗ nghỉ ngơi và kho chứa, các biện pháp an toàn bổ sung, thiết bị tiếp nhiên liệu ngoài biển, vũ khí, hệ thống liên lạc nội bộ, các thiết bị vô tuyến và các trang bị cần thiết khác cho việc phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia.
Việc trì hoãn đưa những con tàu này vào hoạt động đã gây nên những lời chỉ trích nghiêm trọng từ các sĩ quan Hải quân Mỹ.
Những chiếc trong lớp
Nhóm thứ nhất (lớp Bogue / Attacker)
- USS Altamaha trở thành HMS Battler
- USS Barnes trở thành HMS Attacker
- USS Block Island trở thành HMS Hunter
- USS Bogue
- USS Breton trở thành HMS Chaser
- USS Card
- USS Copahee
- USS Core
- USS Croatan trở thành HMS Fencer
- USS Hamlin trở thành HMS Stalker
- USS Nassau
- USS St. George trở thành HMS Pursuer
- USS Altamaha
- USS Prince William trở thành HMS Striker
- USS Barnes
- USS Block Island
- USS Breton
- USS Croatan
- HMS Ravager
- HMS Searcher
- HMS Tracker
Nhóm thứ hai (lớp Bogue / Ameer / Ruler / Prince William)
Các đặc tính chung tương tự như của lớp Attacker, ngoại trừ trọng lượng choán nước và vũ khí.
- USS Prince William
- USS Chatham trở thành HMS Slinger
- USS Glacier trở thành HMS Atheling
- USS Pybus trở thành HMS Emperor
- USS Baffins trở thành HMS Ameer
- USS Bolinas trở thành HMS Begum
- USS Bastian trở thành HMS Trumpeter
- USS Carnegie trở thành HMS Empress
- USS Cordova trở thành HMS Khedive
- USS Delgada trở thành HMS Speaker
- USS Edisto trở thành HMS Nabob
- USS Estero trở thành HMS Premier
- USS Jamaica trở thành HMS Shah
- USS Keweenaw trở thành HMS Patroller
- USS Prince trở thành HMS Rajah
- USS Niantic trở thành HMS Ranee
- USS Perdido trở thành HMS Trouncer
- USS Sunset trở thành HMS Thane
- USS St. Andrews trở thành HMS Queen
- USS St. Joseph trở thành HMS Ruler
- USS St. Simon trở thành HMS Arbiter
- USS Vermillion trở thành HMS Smiter
- USS Willapa trở thành HMS Puncher
- USS Winjah trở thành HMS Reaper
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu sân bay hộ tống _Bogue**_ là một nhóm các tàu sân bay hộ tống được chế tạo tại Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai để phục vụ cho
**Lớp _Casablanca**_ là lớp tàu sân bay hộ tống với số lượng tàu sân bay lớn nhất từng được chế tạo, với năm mươi chiếc được đặt lườn, hạ thủy và nhập biên chế trong
thumb|Tàu sân bay hộ tống của [[Hải quân Hoàng gia Anh]] **Tàu sân bay hộ tống** (ký hiệu lườn **CVE**, tên tiếng Anh: escort carrier hoặc escort aircraft carrier) là một kiểu tàu sân bay
**USS _Bogue_ (CVE-9)**, (nguyên mang ký hiệu **AVG-9**, sau đó lần lượt đổi thành **ACV-9**, **CVE-9**, và **CVHP-9**), là một tàu sân bay hộ tống, là chiếc dẫn đầu của lớp _Bogue_ của Hải quân
**HMS _Attacker_ (D02)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Barnes_ (CVE-7)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-7**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh
**HMS _Chaser_ (D32)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Breton_ (CVE-10)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-10** và rồi là **ACV-10**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho Hải
**HMS _Battler_ (D18)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Altamaha_ (CVE-6)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-6**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh
**HMS _Stalker_ (D91)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Hamlin_ (CVE-15)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-15** và rồi là **ACV-15**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho Hải
**HMS _Fencer_ (D64)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Croatan_ (CVE-14)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-14** và rồi là **ACV-14**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho Hải
**HMS _Speaker_ (D90)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Delgada_ (CVE-40)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-40** và sau đó là **ACV-40**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Puncher_ (D79)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Willapa_ (CVE-53)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-53** và sau đó là **ACV-53**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Ameer_ (D01)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Baffins_ (CVE-35)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-35** và sau đó là **ACV-35**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Tracker_ (D24)** là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp _Bogue_ chế tạo tại Hoa Kỳ, được chuyển giao cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, và đã phục vụ trong Chiến tranh
**HMS _Searcher_ (D40)** là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp _Bogue_ của Hải quân Hoa Kỳ, được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, và đã phục vụ trong Chiến tranh Thế
**HMS _Queen_ (D19)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _St. Andrews_ (CVE-49)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-49** và sau đó là **ACV-49**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển
**HMS _Ravager_ (D70)** là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp _Bogue_ của Hải quân Hoa Kỳ, được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, và đã phục vụ trong Chiến tranh Thế
**HMS _Pursuer_ (D73)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _St. George_ (CVE-17)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-17** và rồi là **ACV-17**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Arbiter_ (D31)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _St. Simon_ (CVE-51)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-51** và sau đó là **ACV-51**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển
**HMS _Ruler_ (D72)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **_St. Joseph_ (AVG/CVE/ACV-50)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-50** và sau đó là **ACV-50**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Thane_ (D48)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Sunset_ (CVE-48)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-48** và sau đó là **ACV-48**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Ranee_ (D03)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Niantic_ (CVE-46)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-46** và sau đó là **ACV-46**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Trouncer_ (D85)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Perdido_ (CVE-47)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-47** và sau đó là **ACV-47**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Shah_ (D21)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Jamaica_ (CVE-43)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-43** và sau đó là **ACV-43**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Nabob_ (D77)** nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Edisto_ (CVE-41)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-41** và sau đó là **ACV-41**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Premier_ (D23)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Estero_ (CVE-42)** thứ nhất (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-42** và sau đó là **ACV-42**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được
**HMS _Emperor_ (D98)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Pybus_ (CVE-34)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-34** và sau đó là **ACV-34**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Slinger_ (D26)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Chatham_ (CVE-32)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-32** và sau đó là **ACV-32**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Reaper_ (D82)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Winjah_ (CVE-54)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-54** và sau đó là **ACV-54**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Smiter_ (D55)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Vermillion_ (CVE-52)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-52** và sau đó là **ACV-52**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Trumpeter_ (D09)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Bastian_ (CVE-37)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-37** và sau đó là **ACV-37**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Striker_ (D12)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **_Prince William_ (CVE-19)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-19** và rồi là **ACV-19**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho Hải
**HMS _Patroller_ (D07)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Keweenaw_ (CVE-44)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-44** và sau đó là **ACV-44**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Rajah_ (D10)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Prince_ (CVE-45)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-45** và sau đó là **ACV-45**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Khedive_ (D62)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Cordova_ (CVE-39)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-39** và sau đó là **ACV-39**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Empress_ (D42)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Carnegie_ (CVE-38)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-38** và sau đó là **ACV-38**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Begum_ (D38)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Bolinas_ (CVE-36)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-36** và sau đó là **ACV-36**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**HMS _Atheling_ (D51)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Glacier_ (CVE-33)** thứ hai (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-33** và sau đó là **ACV-33**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được
**HMS _Hunter_ (D80)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Block Island_ (CVE-8)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-8** và rồi là **ACV-8**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**USS _Card_ (CVE-11)**, (nguyên mang ký hiệu **AVG-11**, sau đó lần lượt đổi thành **ACV-11**, **CVE-11**, **CVHE-11**, **CVU-11** và **AKV-40**), là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp _Bogue_ của Hải quân Hoa Kỳ
**USS _Nassau_ (CVE-16)**, (nguyên mang ký hiệu **AVG-16**, sau đó lần lượt đổi thành **ACV-16**, **CVE-16**, và **CVHE-16**), là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp _Bogue_ của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến
**USS _Altamaha_ CVE-18** (nguyên mang ký hiệu **AVG-18**, sau đó lần lượt đổi thành **ACV-18**, **CVE-18**, và **CVHE-18**), là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp _Bogue_ của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến
**USS _Core_ (CVE-13)**, (nguyên mang ký hiệu **AVG-13**, sau đó lần lượt đổi thành **ACV-13**, **CVE-13**, **CVHE-13**, **CVU-13** và **AKV-41**), là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp _Bogue_ của Hải quân Hoa Kỳ
**USS _Breton_ (CVE-23)** (nguyên mang ký hiệu **AVG-23**, sau đó lần lượt đổi thành **ACV-23**, **CVE-23**, **CVHE-23**, **CVU-23** và **T-AKV-42**), là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp _Bogue_ của Hải quân Hoa Kỳ
**USS _Barnes_ (CVE-20)**, (nguyên mang ký hiệu **AVG-20**, sau đó lần lượt đổi thành **ACV-20**, **CVE-20**, và **CVHE-20**), là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp _Bogue_ của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến
**USS _Block Island_ (CVE-21)** (nguyên mang ký hiệu **AVG-21**, sau đó được đổi thành **ACV-21** và **CVE-21**), là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp _Bogue_ của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh
**USS _Copahee_ (CVE-12)**, (nguyên mang ký hiệu **AVG-12**, sau đó lần lượt đổi thành **ACV-12**, **CVE-12** và **CVHE-12**), là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp _Bogue_ của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến
**USS _Croatan_ (CVE-25)** (nguyên mang ký hiệu **AVG-25**, sau đổi thành **ACV-25** và **CVE-25**), là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp _Bogue_ của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**USS _Prince William_ (CVE-31)** (nguyên mang ký hiệu **AVG-31**, sau đó đổi thành **ACV-31**, **CVE-31** và **CVHE-31**), là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp _Bogue_ của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh
**_I-52_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_U-468_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực