✨Bob Dylan
Robert Dylan (tên khai sinh Robert Allen Zimmerman; sinh ngày 24 tháng 5 năm 1941) là một nam ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ. Được tạp chí Rolling Stone đánh giá là một trong những nhạc sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại, Dylan là một nhân vật quan trọng của nền văn hóa đại chúng trong suốt sự nghiệp kéo dài hơn 60 năm. Phần lớn các sản phẩm nổi tiếng nhất của ông bắt nguồn từ những năm 1960, khi các bài hát như "Blowin' in the Wind" (1963) và "The Times They Are a-Changin'" (1964) trở thành thánh ca của phong trào dân quyền và phản chiến. Lời bài hát của ông trong thời kỳ này chủ yếu nói về các vấn đề chính trị, xã hội, triết học, văn học, thách thức những quy chuẩn nhạc pop và thu hút sự phản kháng văn hóa đang phát triển.
Sau album đầu tay mang tên mình vào năm 1962, chủ yếu bao gồm các bài dân ca truyền thống, Dylan đã có bước đột phá với vai trò nhạc sĩ khi phát hành The Freewheelin' Bob Dylan vào một năm sau đó, bao gồm "Blowin' in the Wind" và "A Hard Rain's a-Gonna Fall". Nhiều bài hát trong số này, ông đã phỏng theo giai điệu và ca từ của những bài hát dân gian xưa. Ông tiếp tục phát hành The Times They Are a-Changin' mang tính chất chính trị và Another Side of Bob Dylan đầy nội tâm và trừu tượng hơn vào năm 1964. Vào năm 1965 và 1966, Dylan gây tranh cãi khi sử dụng bộ khuếch đại điện tử trong việc sản xuất ca khúc, và trong thời gian 15 tháng đó đã thu âm ba trong số những album nhạc rock quan trọng và có ảnh hưởng nhất trong những năm 1960: Bring It All Back Home (1965), Highway 61 Revisited (1965) và Blonde on Blonde (1966). Đĩa đơn dài sáu phút của ông "Like a Rolling Stone" (1965) đã mở rộng ranh giới thương mại và sáng tạo trong âm nhạc đại chúng.
Vào tháng 7 năm 1966, Dylan rút lui khỏi chuyến lưu diễn sau một vụ tai nạn xe máy. Trong thời gian này, ông đã thu âm một lượng lớn những bài hát cùng với các thành viên của The Band, những người trước đó đã hỗ trợ ông trong chuyến lưu diễn. Những bài hát này được phát hành dưới dạng album hợp tác The Basement Tapes vào năm 1975. Vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970, Dylan đã khám phá âm nhạc đồng quê và các chủ đề nông thôn trong John Wesley Harding (1967), Nashville Skyline (1969) và New Morning (1970). Năm 1975, ông phát hành Blood on the Tracks, được nhiều người coi là sự trở lại phong độ đỉnh cao của Dylan. Vào cuối những năm 1970, ông trở thành tín đồ Cơ đốc giáo tái sinh và phát hành một loạt những album nhạc phúc âm đương đại trước khi trở lại với nhạc rock quen thuộc vào đầu những năm 1980. Album năm 1997 Time Out of Mind của Dylan đánh dấu sự khởi đầu phục hưng cho sự nghiệp của ông. Ông đã phát hành năm album được đánh giá cao kể từ đó, gần đây nhất là Rough and Rowdy Ways (2020). Ông cũng đã thu âm một loạt ba album trong những năm 2010 bao gồm các phiên bản làm lại theo tiêu chuẩn truyền thống của Mỹ, đặc biệt là các bài hát đều do Frank Sinatra thể hiện. Được hỗ trợ bởi một đội ngũ các nhạc sĩ trẻ, ông đã đi lưu diễn đều đặn từ cuối những năm 1980 trong chuyến lưu diễn Never Ending Tour.
Kể từ năm 1994, Dylan đã xuất bản tám cuốn sách hội họa và tranh vẽ, tác phẩm của ông được trưng bày tại nhiều phòng trưng bày nghệ thuật lớn. Ông đã bán được hơn 125 triệu đĩa, đưa ông trở thành một trong những nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất mọi thời đại. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm Huân chương Tự do Tổng thống, mười giải Grammy, một giải Quả cầu vàng và một giải Oscar. Dylan đã được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll, Đại sảnh Danh vọng Nhạc soạn nhạc Nashville và Đại sảnh Danh vọng Nhạc sĩ. Hội đồng giải thưởng Pulitzer năm 2008 đã trao cho ông một giải thưởng đặc biệt vì "tác động sâu sắc của ông đối với âm nhạc đại chúng và văn hóa Mỹ, được đánh dấu bằng những vần thơ trữ tình có sức mạnh phi thường". Năm 2016, Dylan được trao giải Nobel Văn học "vì đã tạo ra những cách thể hiện thơ vị trong truyền thống ca khúc vĩ đại của Mỹ".
Cuộc đời và sự nghiệp
Tuổi thơ và khởi nghiệp
nhỏ|Ngôi nhà của gia đình Zimmerman ở Hibbing, Minnesota Bob Dylan, tên khai sinh là Robert Allen Zimmerman ( Shabtai Zisl ben Avraham), sinh ngày 24 tháng 5 năm 1941 tại bệnh viện St. Mary ở Duluth, Minnesota, sau đó lớn lên ở Hibbing, Minnesota, phía tây hồ Thượng. Ông bà nội của cậu, Zigman và Anna Zimmerman, nhập cư tới Mỹ từ vùng Odessa của Đế quốc Nga (nay thuộc Ukraina) sau sự kiện bài Do Thái năm 1905. Ông bà ngoại của cậu, Benjamin và Lybba Edelstein, là những người Do Thái từ Litva tới Mỹ từ năm 1902.
Cha mẹ của Robert, Abram Zimmerman và Beatrice "Beatty" Stone, thuộc về một nhóm người Do Thái khép kín tại đây. Robert Zimmerman sống ở Duluth cho tới tận 6 tuổi khi bố cậu bị tai nạn bại liệt buộc cả gia đình phải chuyển tới quê mẹ ở Hibbing – nơi mà cậu nhóc Robert trải qua hết tuổi thơ của mình. Cậu dành nhiều thời gian khi còn nhỏ của mình để nghe đài phát thanh, đầu tiên là những kênh nhạc blues và nhạc đồng quê từ Shreveport, Louisiana, rồi sau đó khi tới tuổi thiếu niên là những giai điệu rock 'n' roll. Robert cũng lập nên rất nhiều ban nhạc trong quãng thời gian theo học tại trường Hibbing. Cậu từng hát lại rất nhiều ca khúc của Little Richard cũng như Elvis Presley. Phần trình diễn của họ ca khúc "Rock and Roll Is Here to Stay" của Danny & the Juniors trong cuộc thi tài năng ở trường đã từng bị yêu cầu tắt micro vì quá ồn ào. Năm 1959, cuốn niên giám tốt nghiệp của trường Hibbing có ghi dòng chữ "Robert Zimmerman: to join 'Little Richard'". Cùng năm, dưới nghệ danh Elston Gunnn, cậu được tham gia trình diễn cùng Bobby Vee khi chơi lót piano và tay vỗ.
Zimmerman chuyển tới Minneapolis vào tháng 9 năm 1959 khi cậu theo học tại Đại học Minnesota. Những mối quan tâm trước đây của cậu tới rock 'n' roll nhanh chóng chuyển thành nhạc folk Mỹ. Năm 1985, anh giải thích sự chuyển biến này:
:"Những thứ có được với rock 'n' roll đối với tôi dù thế nào cũng không đủ... Nó vẫn có những câu ẩn ý rất hay và cả những nhịp trầm bổng... nhưng ca khúc thì thực sự không nghiêm túc và không thể hiện được đời sống thực. Tôi chỉ biết đến đời sống thực khi được tiếp xúc với nhạc folk, nó là một thể loại nghiêm túc hơn hẳn. Những ca khúc [folk] chứa đựng trong mình nhiều sự thất vọng hơn, nhiều nỗi buồn hơn, nhiều vinh quang hơn, nhiều niềm tin hơn trong một thứ cảm xúc siêu nhiên và lắng đọng hơn." Trong những ngày ở đây, cậu bắt đầu tự giới thiệu mình dưới tên "Bob Dylan". Trong tâm trí mình, Dylan sau này nhớ lại rằng mình bị ảnh hưởng lớn từ nhà thơ Dylan Thomas. Trong buổi phỏng vấn vào năm 2004, Dylan nhấn mạnh: "Bạn có thể được sinh ra với một cái tên xấu, bởi những người cha mẹ không mong muốn. Ý tôi là, nó đã diễn ra như vậy đấy. Bạn có thể gọi mình bằng bất kể cái tên nào bạn muốn. Đây là đất nước tự do." người đang phải điều trị vì rối loạn chức năng thần kinh tại bệnh viện Greystone Park. Guthrie là người mở lối cho Dylan và có rất nhiều ảnh hưởng tới những ngày đầu tiên của anh. Miêu tả về vai trò của Guthrie, sau này Dylan viết: "Những ca khúc có trong mình sự bao quát rộng lớn về nhân đạo... [Anh ấy] là tiếng nói thực sự của tâm hồn Mỹ. Tôi tự nhủ bản thân sẽ trở thành học trò tốt nhất của Guthrie." Khi tới thăm Guthrie tại bệnh viện, Dylan kết bạn với Ramblin' Jack Elliott. Rất nhiều tiết mục của Guthrie được cung cấp qua Elliott, và Dylan đã tri ân Elliott bằng việc nhắc tới ông trong cuốn tự truyện Chronicles (2004).
nhỏ|phải|Baez và Dylan trình diễn trong hoạt động "[[Tuần hành về Washington cho việc làm và tự do" ngày 28 tháng 8 năm 1963]] Từ tháng 2 năm 1961, Dylan đi diễn tại nhiều câu lạc bộ nhỏ quanh khu vực làng Greenwich. Anh làm quen và trau dồi kỹ năng với rất nhiều ca sĩ nhạc folk tại đây, có thể kể tới Dave Van Ronk, Fred Neil, Odetta, The New Lost City Ramblers và những nghệ sĩ từ Ireland như The Clancy Brothers and Tommy Makem. Tới tháng 9, anh và Robert Shelton có được chút chú ý từ dư luận khi viết đánh giá cho tờ The New York Times về một buổi diễn tại Gerde's Folk City. Dylan cũng tham gia chơi harmonica trong album phòng thu thứ ba của ca sĩ Carolyn Hester, khiến anh được nhà sản xuất John Hammond để ý. Hammond giúp đỡ Dylan có được hợp đồng thu âm đầu tiên với Columbia Records vào tháng 10. Những bản thu đầu tiên được đưa vào album Bob Dylan, phát hành vào tháng 3 năm 1962, bao gồm nhiều chất liệu folk, blues và phúc âm quen thuộc đi cùng với 2 sáng tác của chính anh. Album chỉ có được một thành công nhỏ khi bán được 5.000 bản trong năm đầu tiên, vừa đủ để thu hồi vốn. Trong nội bộ hãng Columbia, nhiều người gọi anh là "sự ngớ ngẩn của Hammond" và khuyên ông nên hủy hợp đồng, song Hammond cùng Johnny Cash – một trong những người hâm mộ đầu tiên của Dylan – đã lên tiếng bảo vệ anh một cách mạnh mẽ. Trong nhiều buổi thu tại Columbia, anh còn sử dụng nghệ danh khác là Blind Boy Grunt để thu âm cho Broadside Magazine – một tạp chí và hãng đĩa nhỏ tại đây. Dylan còn dùng nghệ danh Bob Landy để chơi piano trong The Blues Project, album tuyển tập năm 1964 của Elektra Records. và ký hợp đồng quản lý với Albert Grossman (tháng 6 năm 1961, anh vừa mới ký hợp đồng quản lý với Roy Silver, và Grossman phải trả 10.000 USD để mua lại hợp đồng của Silver). Grossman còn làm quản lý cho anh cho tới tận năm 1970, nổi tiếng một phần vì tính cách hung hãn và một phần vì niềm tin mà ông bảo về cho thân chủ của mình. Dylan sau này nói về ông: "Grossman là hình mẫu của Colonel Tom Parker... Bạn có thể đánh hơi được ông ta đang tới."
Chuyến đi đầu tiên tới Anh của Dylan diễn ra từ tháng 12 năm 1962 tới tháng 1 năm 1963. Anh được đạo diễn Philip Saville mời xuất hiện trong chương trình Madhouse on Castle Street mà Saville dàn dựng trên BBC Television. Cuối chương trình, Dylan trình bày ca khúc "Blowin' in the Wind": đây là một trong những buổi trình diễn chính thức đầu tiên của ca khúc này. "Oxford Town" chính là những lời gièm pha về trải nghiệm của James Meredith khi là người da màu đầu tiên được theo học tại Đại học Mississippi.
Ca khúc nổi tiếng nhất của Dylan thời điểm này là "Blowin' in the Wind", được lấy một phần từ một ca khúc truyền miệng giữa những người nô lệ da màu mang tên "No More Auction Block", tuy nhiên phần ca từ lại đặt ra những câu hỏi về quan điểm xã hội và chính trị. Ca khúc được rất nhiều nghệ sĩ khác thu âm và sau đó trở thành bản hit rộng khắp qua ấn bản của Peter, Paul and Mary, mở đầu cho sự thành công của hàng loạt nghệ sĩ khi hát lại các ca khúc của Dylan. "A Hard Rain's a-Gonna Fall" được viết từ bản ballad nhạc folk "Lord Randall". Đề cập tới ngày tận thế trước mắt, nó càng thu hút được công chúng khi sự kiện Khủng hoảng tên lửa Cuba diễn ra chỉ vài tuần sau khi Dylan trình diễn bài hát trên. Cũng như "Blowin' in the Wind", "A Hard Rain's a-Gonna Fall" đánh dấu con đường viết nhạc mới của anh: hòa quyện dòng ý thức, ca từ giàu tính tưởng tượng với giai điệu nhạc folk truyền thống.
Ngoài những ca khúc thương hiệu giúp Dylan sớm có được thành công, Freewheelin' còn bao gồm một số bản tình ca và ca khúc châm biếm, những câu chuyện blues siêu thực. Hài hước chính là một phần trong con người Dylan, và những chất liệu hoàn toàn mới của album đã gây ấn tượng tới rất nhiều nghệ sĩ khác, trong đó có The Beatles. George Harrison nói: "Chúng tôi đã chơi những ca khúc đó, và cố gắng thử nghiệm chúng với bản thân. Nội dung trong phần ca từ và đặc biệt là thái độ thực sự vô cùng căn nguyên và tuyệt diệu."
nhỏ|phải|Dylan trên sân khấu tháng 11 năm 1963 Giọng hát có phần thô ráp của Dylan ban đầu không cuốn hút nhiều người nghe mà chỉ một phần trong số họ. Miêu tả ấn tượng về âm nhạc của Dylan tới mình và chồng, Joyce Carol Oates viết: "Khi lần đầu chúng tôi nghe cậu ấy lúc mới vào nghề, còn rất trẻ với giọng hát còn chưa được trui rèn, hoàn toàn giọng mũi, như kiểu một tờ giấy ráp biết hát vậy, hiệu ứng thật xúc động và kích thích." Hầu hết những ca khúc nổi tiếng thuở đầu của Dylan chỉ được biết tới khi được những nghệ sĩ khác, chẳng hạn Joan Baez – người hướng dẫn và cũng là bạn gái của Dylan – hát lại. Baez chính là người đưa âm nhạc của Dylan ra phạm vi quốc gia và quốc tế khi thu âm nhiều sáng tác của anh và mang anh lên sân khấu trong những buổi diễn của cá nhân cô.
Những nghệ sĩ khác từng hát lại các sáng tác của Dylan còn có The Byrds, Sonny & Cher, The Hollies, Peter, Paul and Mary, The Association, Manfred Mann và The Turtles. Hầu hết họ đều mang cảm xúc và nhịp điệu nhạc pop vào trong các ca khúc, trong khi Dylan và Baez vẫn luôn trình diễn chúng theo phong cách nhạc folk. Những bản hát lại trên ngày một được nhiều người biết tới, tới mức đài CBS phải đưa thêm dòng phụ chú "Nobody Sings Dylan Like Dylan".
"Mixed Up Confusion" được thu âm trong thời kỳ Freewheelin', phát hành dưới dạng đĩa đơn song đã nhanh chóng bị thu hồi. Trái với phần trình bày cùng các nhạc cụ mộc trong album, đĩa đơn đã cho thấy những khám phá trải nghiệm của Dylan với âm nhạc rockabilly. Cameron Crowe miêu tả đây "cái nhìn hấp dẫn của một nghệ sĩ nhạc folk với tâm trí hướng về Elvis Presley và Sun Records".
Phản chiến và Another Side
Tháng 5 năm 1963, quan điểm chính trị của Dylan ngày một được quan tâm và anh được mời tới chương trình The Ed Sullivan Show. Trong quá trình tập dượt, anh được đài CBS thông báo rằng anh phải trình diễn ca khúc "Talkin' John Birch Paranoid Blues" nhằm ủng hộ tổ chức John Birch Society. Vì không muốn phải thỏa thuận với các cơ quan kiểm duyệt, Dylan quyết định không tham gia chương trình nữa.
Cũng khoảng thời gian này, Dylan và Baez cùng nhau tham gia vào rất nhiều hoạt động xã hội, bắt đầu từ cuộc Tuần hành về Washington ngày 23 tháng 8 năm 1963. Album thứ ba của anh, The Times They Are a-Changin', thể hiện một Dylan giàu tính chính trị và châm biếm hơn. Những ca khúc đề cập tới những chủ đề thời sự hơn, liên quan tới đời sống, trong đó "Only A Pawn In Their Game" được viết để gửi tới thủ phạm ám sát nhà hoạt động nhân quyền Medgar Evers, còn "The Lonesome Death of Hattie Carroll" lại nhắc tới cái chết của người phục vụ quán bar da màu Hattie Carroll bởi nhân vật hoạt động xã hội trẻ tuổi William Zantzinger. Với chủ đề khái quát hơn, "Ballad of Hollis Brown" và "North Country Blues" thể hiện nỗi chán chường đối với sự tan rã của cộng đồng những người tá điền và khai thác mỏ. Những chất liệu chính trị thậm chí còn xuất hiện trong cả hai bản tình ca "Boots of Spanish Leather" và "One Too Many Mornings".
Cuối năm 1963, Dylan vận động và điều hòa giữa nhạc folk truyền thống và các hoạt động phản chiến. Những căng thẳng nổ ra khi trong lúc nhận giải thưởng Tom Paine do Ủy ban Quốc gia khẩn cấp về nhân quyền (NECLC) trao tặng không lâu sau vụ ám sát Tổng thống John F. Kennedy, Dylan đã say sưa đặt những câu hỏi về vai trò của Ủy ban này, miêu tả những thành viên trong hội đồng là già nua và hói đầu, cho rằng đó là những đặc điểm tương đồng với thủ phạm ám sát Kennedy, Lee Harvey Oswald.
nhỏ|phải|Dylan trình diễn tại Đại học St. Lawrence, tháng 11 năm 1963 Another Side of Bob Dylan, thu âm chỉ trong một buổi tối tháng 6 năm 1964, mang cảm xúc tươi sáng hơn những album trước đó. Tính siêu thực và châm biếm vẫn được Dylan đưa vào trong những "I Shall Be Free No. 10" và "Motorpsycho Nightmare". "Spanish Harlem Incident" và "To Ramona" là những bản tình ca lãng mạn và say đắm, trong khi "Black Crow Blues" và "I Don't Believe You (She Acts Like We Never Have Met)" đã chỉ ra tính rock 'n' roll sau này là chủ đạo trong phong cách của anh. "It Ain't Me Babe", về vẻ ngoài đề cập tới một tình yêu bị chối bỏ, song thực tế lại nói tới việc anh cố gắng vượt qua những sức ép lên chính bản thân mình. Con đường mới mà Dylan lựa chọn thể hiện qua 2 ca khúc dài: "Chimes of Freedom" với những yếu tố của định kiến xã hội trái ngược với phong cách ẩn dụ sâu sắc hơn mà sau này Allen Ginsberg gọi là "chuỗi những hình ảnh chói lòa"; "My Back Pages" đả kích sự nghiêm túc dễ dãi và đầy hình thức trong những sản phẩm đầu tay của chính mình và dường như gợi ý con đường mới chống lại những vinh quang mà anh từng có được.
Cuối năm 1964 đầu năm 1965, phong cách trình diễn của Dylan thay đổi hoàn toàn khi anh quyết định chuyển mình từ người đi đầu phong trào nhạc folk thành một ngôi sao folk rock. Quần bò phủi cùng chiếc áo khoác nhàu được trang phục từ Carnaby Street thay thế, luôn luôn đeo kính râm và đi những "đôi giày The Beatles". Một phóng viên từ Luân Đôn viết: "Đầu tóc như thể muốn làm cho những chiếc răng lược cảm thấy xấu hổ. Những chiếc áo lòe loẹt phù hợp với khu đèn đỏ của Leiceiter. Trông anh ta như một con vẹt ốm đói vậy." Dylan cũng bắt đầu nói nhiều tới những chủ đề siêu thực trong những bài phỏng vấn. Xuất hiện trên chương trình truyền hình của Les Crane, khi được hỏi về kế hoạch thực hiện bộ phim sắp tới, Dylan trả lời rằng đó là một bộ phim cao bồi kinh dị. Sau đó khi được hỏi liệu anh có thủ vai cao bồi không, Dylan đáp: "Không, tôi vào vai mẹ tôi."
Bước ngoặt với nhạc cụ điện
Album Bringing It All Back Home (1965) của Dylan đánh dấu một bước nhảy vọt mới về phong cách khi lần đầu tiên anh sử dụng nhạc cụ điện để thu âm. Đĩa đơn đầu tiên, "Subterranean Homesick Blues", có nhiều nét tương đồng với ca khúc "Too Much Monkey Business" của Chuck Berry, trong khi cách viết lời phóng khoáng gợi lại nhiều yếu tố từ phong cách thơ Beat, thậm chí khơi liên tưởng tới phong cách rap và hip-hop sau này. Ca khúc được đi kèm với một video ca nhạc, trình chiếu lần đầu trong bộ phim tài liệu Dont Look Back của đạo diễn D. A. Pennebaker mở màn chuyến lưu diễn vòng quanh nước Anh của Dylan. Cùng lúc hát khi quay phim, anh còn minh họa phần ca từ bằng cách ném những mảnh giấy có ghi những từ khóa xuống đất. Pennebaker nói rằng đó là ý tưởng của Dylan, sau này được rất nhiều video ca nhạc và clip quảng cáo khác bắt chước.
Mặt B của Bringing It All Back Home bao gồm 4 ca khúc mà Dylan quay lại sáng tác với guitar và harmonica. "Mr. Tambourine Man" nhanh chóng trở thành một trong những ca khúc nổi tiếng nhất của anh khi được The Byrds hát lại bằng nhạc cụ điện và đạt vị trí quán quân ở tại Anh và Mỹ. Ngoài ra, "It's All Over Now, Baby Blue" và "It's Alright Ma (I'm Only Bleeding)" cũng trở thành những ca khúc quan trọng nhất sự nghiệp của Dylan.
Năm 1965, mở đầu Liên hoan nhạc folk ở Newport, lần đầu tiên kể từ thời trung học Dylan trình diễn cùng các nhạc cụ điện, chủ yếu là cùng với các thành viên đến từ nhóm nhạc blues của Paul Butterfield, bao gồm Mike Bloomfield (guitar), Sam Lay (trống) và Jerome Arnold (bass), cùng với Al Kooper (organ) và Barry Goldberg (piano). Dylan từng diễn tại Newport vào năm 1963 và 1964, nhưng vào năm 1965, Dylan lần đầu phải chứng kiến tiếng hò hét và la ó, vậy nên anh rời sân khấu chỉ sau 3 ca khúc. Một trong những câu chuyện kể lại rằng tiếng la ó vang lên từ những người hâm mộ lâu năm nhạc folk ngay khi Dylan xuất hiện, mà không hề lường trước, cùng chiếc guitar điện. Murray Lerner – người quay phim lại buổi diễn – nói rằng: "Tôi chắc chắn rằng mọi người đều la ó vì Dylan chơi nhạc cụ điện." Tuy nhiên có nhiều người kể rằng đám đông cảm thấy bất bình vì chất lượng âm thanh quá tồi trong khi chương trình lại quá ngắn. Lời kể này được Kooper và một trong những đạo diễn của liên hoan ủng hộ khi bản thân ông nhớ lại rằng bản thu phần âm thanh của buổi diễn đã chứng minh rằng tiếng la ó chỉ bắt đầu cất lên khi MC của chương trình tuyên bố rằng chỉ còn đủ thời gian cho những đoạn diễn ngắn.
Tuy nhiên, buổi diễn năm 1965 tại Newport lại dẫn tới những phản ứng mạnh mẽ trong cộng đồng nghe nhạc folk. Trong ấn bản tháng 9 của tờ Sing Out!, ca sĩ Ewan MacColl viết: "Những ca khúc và những bản ballad truyền thống của chúng ta là những sáng tạo tuyệt vời của những nghệ sĩ tài năng làm việc với sự rèn luyện không ngừng... 'Nhưng Bobby Dylan có gì?' Những tiếng hét điên loạn từ thanh niên... Chỉ có những thính giả không biết phê bình, sống trong môi trường loãng toẹt của nhạc pop, mới dễ dàng bị mấy bài đánh giá mười-sao ngớ ngẩn thuyết phục." Ngày 29 tháng 7, chỉ 4 ngày sau buổi diễn ở Newport, Dylan quay lại New York và bắt đầu thu âm ca khúc "Positively 4th Street". Ca từ thấm đẫm hình ảnh của sự trả thù và cả sự hoang tưởng, và được công nhận rộng khắp như một lời chia tay của Dylan với những người bạn cũ trong cộng đồng nhạc folk – những người mà anh làm quen từ câu lạc bộ ở địa chỉ West 4th Street.
Highway 61 Revisited và Blonde on Blonde
Tháng 7 năm 1965, Dylan cho ra mắt đĩa đơn "Like a Rolling Stone", đạt vị trí số 2 tại Mỹ và số 4 tại Anh. Với tổng độ dài hơn 6 phút, ca khúc được công nhận rộng rãi là sản phẩm chống lại những quy chuẩn đương thời của một đĩa đơn nhạc pop. Bruce Springsteen, trong lời đề cử Dylan tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll, nói rằng khi nghe đĩa đơn này, "sự cám dỗ như thể ai đó đang đạp tung cánh cửa trước mặt mình". Năm 2004, tạp chí Rolling Stone xếp ca khúc này ở vị trí số 1 trong danh sách "500 bài hát vĩ đại nhất". Đây cũng là ca khúc mở đầu cho album tiếp theo của Dylan, Highway 61 Revisited, đặt tên theo con đường mà từ đó anh đã rời khỏi Minnesota để tới New Orleans. Những ca khúc sau đó tiếp tục bám theo cảm hứng từ đĩa đơn trên với Mike Bloomfield chơi guitar và Al Kooper chơi organ. "Desolation Row", với phần guitar acoustic và bass chơi lót, là ngoại lệ duy nhất khi Dylan đưa vào đó vô vàn lời ám chỉ siêu thực trong văn hóa phương Tây, mà theo Andy Gill là "11 phút hỗn tạp, mang kiểu cách phô trương lố bịch của Fellini cùng sự lập dị với sự xuất hiện của rất nhiều nhân vật nổi tiếng, một vài nhân vật lịch sử (Einstein và Nero), một vài nhân vật trong Kinh thánh (Noah, Cain và Abel), một vài nhân vật tưởng tượng (Ophelia, Romeo và cô bé Lọ Lem), một vài nhà văn (T.S. Eliot và Ezra Pound), và một vài nhân vật không thể xếp vào bất cứ thể loại nào, điển hình là bác sĩ Filth và cô y tá đầy mập mờ."
Để hỗ trợ thu âm, Dylan cũng thiết kế 2 buổi diễn tại Mỹ và mang ban nhạc chơi lót cùng Kooper và Harvey Brooks từ phòng thu của mình, đi cùng là Robbie Robertson và Levon Helm – những thành viên của nhóm The Hawks. Ngày 28 tháng 8 tại sân tennis Forest Hills, ê-kíp tiếp tục bị người hâm mộ la ó mỗi khi Dylan sử dụng nhạc cụ điện. Thái độ của khán giả trong buổi diễn ngày 3 tháng 9 ở Hollywood Bowl thì có phần khả quan hơn.
Bắt đầu với buổi diễn ngày 24 tháng 9 ở Austin, Texas, Dylan thực hiện chuyến lưu diễn vòng quanh Mỹ và Canada trong vòng 6 tháng, với nhóm The Hawks chơi lót, sau này đổi tên thành The Band. Dylan và ban nhạc ngày một có được thiện cảm từ công chúng, song lịch làm việc với phòng thu lại bị ảnh hưởng lớn. Nhà sản xuất Bob Johnston hối thúc Dylan thu âm ngay tại Nashville trong tháng 2 năm 1966 và giới thiệu với anh những nghệ sĩ tài năng quanh khu vực này. Với sự nài nỉ của Dylan, Robertson và Kooper cùng nhau rời New York để tới Nashville thu âm. Quá trình thu âm tại đây đã cho ra đời album Blonde on Blonde (1966) mà sau này Dylan gọi là "thứ âm thanh gọn gàng hoang dã". Kooper miêu tả album như "gộp 2 nền văn hóa khác nhau và khiến chúng tạo ra một vụ nổ lớn": văn hóa âm nhạc tại Nashville và văn hóa của "gã hipster New York điển hình" Bob Dylan.
Ngày 22 tháng 11 năm 1965, Dylan bí mật kết hôn với người mẫu 25 tuổi Sara Lownds. Một vài người bạn được mời tới (trong đó có cả Ramblin' Jack Elliott) đều nói rằng Dylan đã ngay lập tức chối bỏ việc kết hôn trong buổi trò chuyện ngay sau buổi lễ.
Dylan lên kế hoạch thực hiện chuyến lưu diễn tại Úc và châu Âu trong tháng 4 và tháng 5 năm 1966. Mỗi chương trình có 2 phần, Dylan sẽ chơi solo trong phần đầu cùng guitar acoustic và harmonica; phần tiếp theo với sự có mặt của The Hawks và Dylan sẽ chơi các nhạc cụ điện giản lược. Sự tương phản này thể hiện rõ trong đám đông người hâm mộ khi họ chỉ cười nhạo và vỗ tay rời rạc. Thái độ này lên tới đỉnh điểm trong buổi diễn tại Free Trade Hall ở Manchester, Anh ngày 17 tháng 5 năm 1966. Bản thu trực tiếp buổi diễn này sau đó trở thành The Bootleg Series Vol. 4: Bob Dylan Live 1966 (1998). Tới cuối buổi chiều, một người trong đám đông tức giận khi thấy Dylan sử dụng nhạc cụ điện và gào lên "Judas!" còn Dylan đáp lại "Tôi không tin... Cậu là kẻ nói dối!" rồi quay lại phía ban nhạc "Hãy chơi nhạc to hơn!" khi họ bắt đầu trình diễn ca khúc cuối cùng của buổi diễn – "Like a Rolling Stone".
Trong chuyến lưu diễn tháng 7 năm 1966, Dylan thường xuyên ở trong tình trạng kiệt sức và làm việc "như thể một chuyến đi chết chóc". D. A. Pennebaker, người quay phim lại chuyến lưu diễn, miêu tả Dylan đã "uống rất nhiều amphetamine và nhiều thứ khác ai mà biết được". Trong buổi phỏng vấn năm 1969 cùng Jann Wenner, Dylan nói: "Tôi đã rong ruổi suốt gần 5 năm, nó khiến tôi kiệt sức. Tôi có dùng ma túy, rất nhiều loại... để có sức làm việc, anh hiểu chứ?" Năm 2011, BBC Radio 4 đề cập rằng, trong bài phỏng vấn mà Robert Shelton thu âm lại vào năm 1966, Dylan đã tiết lộ anh tiếp xúc với heroin khi ở New York: "Tôi đã rất, rất thư giãn trong một khoảng thời gian... Tôi mất khoảng 25 USD mỗi ngày và tôi đã thử nó." Nhiều nhà báo nghi ngờ tính xác thực của câu nói trên, cho rằng Dylan "đã nói với nhà báo những lời nói dối bừa bãi về quá khứ từ những ngày đầu sự nghiệp của mình".
Tai nạn xe máy và hồi phục
Sau chuyến lưu diễn vòng quanh châu Âu, Dylan quay lại New York, song áp lực ngày một lớn. Kênh truyền hình ABC phải trả tiền để chương trình về anh không phải lên sóng. Hãng xuất bản Macmillan Publishers cũng yêu cầu anh sớm hoàn thiện phần viết tay cuốn truyện thơ Tarantula. Quản lý Albert Grossman lên kế hoạch cho lịch diễn dày đặc vào mùa hè song cũng thất bại.
Ngày 29 tháng 7 năm 1966, Dylan gặp tai nạn xe máy khi điều khiển chiếc Triumph Tiger 100 dung tích 500cc trên một con phố gần Woodstock, New York và bị văng xa trên mặt đất. Cho dù chi tiết về chấn thương không được tiết lộ, Dylan sau đó nói rằng anh bị gãy rất nhiều đốt sống cổ. Nhiều bí ẩn được ghi lại khi không có một chiếc cứu thương nào xuất hiện, và thậm chí Dylan còn không được đưa tới bệnh viện. Nhiều nhà viết sử cho rằng vụ tai nạn này là sự kiện hoàn hảo góp phần giúp Dylan tránh được dư luận đang bủa vây quanh mình. Dylan cũng nhắc tới vụ tai nạn trong cuốn tự truyện của mình "Tôi từng bị tai nạn xe máy, bị chấn thương rồi hồi phục. Niềm tin chính là thứ một muốn vứt bỏ khỏi những tranh cãi bế tắc." Sau vụ tai nạn, Dylan không xuất hiện trước công chúng, ngoại trừ một vài lần bất khả kháng và không đi lưu diễn trong vòng 8 năm sau đó.
Ngay khi có lại nguồn cảm hứng làm việc, Dylan liền đề nghị D. A. Pennebaker biên tập lại những thước phim quay trong chuyến lưu diễn năm 1966 của mình. Một trích đoạn được giới thiệu trên kênh ABC song bị từ chối phát sóng do nội dung khó hiểu. Bộ phim sau này được đặt tên Eat the Document và được phát hành dưới dạng sao chép truyền tay, ngoài ra phim cũng được trình chiếu tại một vài liên hoan phim. Năm 1967, Dylan quay lại thu âm cùng The Hawks tại nhà riêng và tại trụ sở của ban nhạc ở gần đó có tên "Big Pink". Những ca khúc này vốn được thực hiện dưới dạng demo, trở thành những đĩa đơn quán quân cho Julie Driscoll và The Brian Auger Trinity ("This Wheel's on Fire"), The Byrds ("You Ain't Goin' Nowhere", "Nothing Was Delivered"), và Manfred Mann ("Mighty Quinn"). Columbia sau đó cho phát hành chúng trong tuyển tập The Basement Tapes (1975). Rất nhiều năm sau, những ca khúc mà Dylan cùng ban nhạc thu âm trong năm 1967 mới xuất hiện trong vài sản phẩm thu âm, trong đó có tuyển tập 5 CD mang tên The Genuine Basement Tapes bao gồm 107 bản thu chính thức và cả thu nháp. Ngay tháng sau đó, The Hawks tiến hành thu âm album Music from Big Pink sử dụng những ca khúc họ từng thu âm tại Woodstock và chính thức đổi tên thành The Band, bắt đầu sự nghiệp thu âm kéo dài và thành công.
Tháng 10 và 11 năm 1967, Dylan quay lại Nashville. Trở lại phòng thu sau 19 tháng, anh mang theo Charlie McCoy trong vai trò chơi bass, Kenny Buttrey chơi trống, và Pete Drake chơi guitar. Ngoài ra còn có sáng tác "All Along the Watchtower" với phần ca từ trích từ Sách Isaiah (chương 21:5–9). Ca khúc sau này được Jimi Hendrix thu âm, góp phần giúp cho ấn bản sau này của Dylan được biết tới. Woody Guthrie qua đời ngày 3 tháng 10 năm 1967 và Dylan lần đầu tiên sau 12 tháng trình diễn trước công chúng trong buổi lễ tưởng niệm Guthrie tại Carnegie Hall ngày 20 tháng 1 năm 1968 với The Band chơi lót.
Album tiếp theo của Dylan, Nashville Skyline (1969), bao gồm những bản thu đồng quê với sự hợp tác của các nghệ sĩ ở Nashville, phần giọng ngà ngà say của Dylan song ca cùng Johnny Cash, đặc biệt là đĩa đơn "Lay Lady Lay". Tạp chí Variety viết: "Dylan cuối cùng cũng làm được thứ gì đó mà người nghe có thể gọi là hát. Theo cách nào đó mà anh ấy mới bổ sung thêm được một quãng tám vào giọng ca của mình." Dylan và Cash trước đó có cùng nhau thu âm hàng loạt những bản song ca, song chỉ duy nhất ca khúc "Girl from the North Country" của Dylan được chọn cho album.
Tháng 5 năm 1969, Dylan xuất hiện trong tập đầu tiên của chương trình truyền hình về Johnny Cash, song ca với Cash trong 3 ca khúc "Girl from the North Country", "I Threw It All Away" và "Living the Blues". Sau đó anh đặt vé đi Anh để tham dự Liên hoan nhạc rock ở Đảo Wight ngày 31 tháng 8 năm 1969 sau khi từ chối tham gia Liên hoan âm nhạc Woodstock gần nhà anh hơn rất nhiều.
Thập niên 1970
Đầu những năm 1970, những bình luận về Dylan nhìn chung là đa dạng và nhiều tranh cãi. Nhà phê bình Greil Marcus của tờ Rolling Stone đã phải thốt lên "Thứ chết tiệt gì đây?" ngay sau lần đầu tiên lắng nghe album Self Portrait, được ra mắt vào tháng 6 năm 1970. Nhìn chung, album kép trên của Dylan với chỉ một vài sáng tác cá nhân, nhận được đánh giá rất thấp. Tới tháng 10, anh cho phát hành New Morning quay trở lại với phong cách ban đầu. Tháng 11 năm 1968, anh cùng George Harrison sáng tác nên ca khúc "I'd Have You Anytime"; Harrison sau đó thu âm ca khúc "I'd Have You Anytime" và sáng tác "If Not for You" của Dylan cho album đơn ca đầu tay của mình, All Things Must Pass (1970). Sự xuất hiện bất ngờ của Dylan trong chương trình Concert for Bangladesh của Harrison vào năm 1971 thu hút sự quan tâm đặc biệt của công chúng, minh chứng rõ ràng việc Dylan đã rất lâu không còn đứng trên sân khấu.
Trong khoảng những ngày 16-19 tháng 3 năm 1971, Dylan làm việc cùng với Leon Russell tại Blue Rock Studios, một phòng thu nhỏ nằm ở làng Greenwich, New York. Những ngày thu âm đã giúp anh có được đĩa đơn "Watching the River Flow", ngoài ra còn có ca khúc mới "When I Paint My Masterpiece". Ngày 4 tháng 11 năm 1971, anh thu âm "George Jackson", bài hát được phát hành ngay 1 tuần sau đó. Dylan gây ngạc nhiên cho rất nhiều người khi quay lại với chủ đề phản chiến liên hệ với vụ ám sát George Jackson của Đảng Black Panther ở nhà tù San Quentin không lâu trước đó. Ngoài ra, anh còn đóng góp phần piano và harmonica trong album Somebody Else's Troubles của Steve Goodman vào tháng 9 năm 1972 dưới nghệ danh Robert Milkwood Thomas.
Năm 1972, Dylan ký hợp đồng với bộ phim Pat Garrett and Billy the Kid của đạo diễn Sam Peckinpah, anh tham gia sáng tác toàn bộ phần âm nhạc cho bộ phim, đồng thời thủ vai nhân vật "Alias" – thành viên của băng nhóm Billy dựa theo vài nguồn tư liệu có thật. Cho dù bộ phim không có được nhiều thành công tại rạp chiếu, sáng tác chủ đề "Knockin' on Heaven's Door" của Dylan sau này trở thành một trong những ca khúc được hát lại nhiều nhất của anh.
Trở lại lưu diễn
nhỏ|phải|Bob Dylan, thứ 3 từ trái sang, cùng The Band trên sân khấu năm 1974 Năm 1973, Dylan ký hợp đồng với hãng đĩa mới, Asylum Records của David Geffen, sau khi hợp đồng với Columbia đáo hạn. Album tiếp theo của anh, Planet Waves, với The Band chơi lót, bao gồm những ca khúc từng được thể hiện trong các buổi diễn. Album bao gồm 2 ấn bản của ca khúc "Forever Young", sau này trở thành một trong những ca khúc nổi tiếng nhất của anh. Một trong những đánh giá miêu tả ca khúc đã làm bật lên "một thứ gì đó thánh ca và chân thành viết về người cha của Dylan", trong khi bản thân anh bình luận "Tôi viết nó khi đang nghĩ về một trong những đứa con trai của mình, và tôi không muốn nó lại sướt mướt quá." Cây viết sử Howard Sounes cũng ghi chép rằng Jakob Dylan cũng tin rằng ca khúc này là sáng tác dành cho anh. Tháng 1 năm 1974, Dylan quay trở lại lưu diễn sau 7 năm sống ẩn dật; được The Band chơi lót, anh xuất hiện với sự tự tin lớn, đi dọc vùng duyên hải Bắc Mỹ với 40 buổi diễn. Album trực tiếp từ chuyến đi, Before the Flood, được Asylum phát hành sau đó. Không lâu sau, Columbia lên tiếng tuyên bố "sẽ không làm bất kể điều gì để đưa Dylan quay lại mái nhà xưa". Anh liền quay trở lại Columbia Records và hãng này được ủy quyền phát hành 2 album của Asylum dưới tên nhãn đĩa của mình.
Sau khi chuyến lưu diễn kết thúc, Dylan và vợ liền tạm thời xa lánh công chúng. Anh nhanh chóng viết đầy cuốn sổ tay với những sáng tác mới về những mối quan hệ và sự chia ly, thu âm thành album mới mang tên Blood on the Tracks vào tháng 9 năm 1974. Dylan trì hoãn quá trình ra mắt album khi cho thu âm lại một nửa số ca khúc tại phòng thu Sound 80 Studios tại Minneapolis với sự hỗ trợ kỹ thuật từ người anh trai David Zimmerman.
Được phát hành vào đầu năm 1975, Blood on the Tracks nhận được nhiều phản ứng trái chiều. Trên tờ NME, cây bút Nick Kent bình luận "phần nhạc đệm đôi lúc tạo cảm giác rác rưởi như thể đây chỉ là những bản thu nháp". Nhà báo Jon Laudau của tạp chí Rolling Stone miêu tả đây là "một bản thu được tạo nên từ sự rẻ tiền điển hình". Nhà văn Rick Moody gọi đây là "sản phẩm chân thực nhất, chân thành nhất về tình yêu, từ cái nắm tay tới tình dục, được đặt trong giai điệu của băng từ."
nhỏ|phải|Bob Dylan và [[Allen Ginsberg trong chuyến lưu diễn Rolling Thunder Revue năm 1975]] Hè năm đó Dylan sáng tác bản ballad dài viết về nhà vô địch quyền anh Rubin Carter khi ông bị kết án giết người ở Paterson, New Jersey năm 1966. Sau khi thăm Carter trong tù, Dylan đã viết nên ca khúc "Hurricane", minh chứng Carter hoàn toàn vô tội. Với độ dài 8:32, ca khúc này được phát hành dưới dạng đĩa đơn, có được vị trí số 33 tại Billboard và được trình bày trong mọi buổi diễn của chuyến lưu diễn Rolling Thunder Revue của Dylan vào năm 1975. Chuyến lưu diễn diễn được thay đổi vào mỗi buổi diễn với sự tham gia của hàng trăm nghệ sĩ cũng như người hâm mộ khác nhau trong cộng đồng nhạc folk ở Greenwich, có thể kể tới T-Bone Burnett, Ramblin' Jack Elliott, Joni Mitchell, David Mansfield, Roger McGuinn, Mick Ronson, Joan Baez và nghệ sĩ vĩ cầm Scarlet Rivera mà một lần tình cờ Dylan bắt gặp cô trên đường khi đang đeo trên lưng cây đàn. Allen Ginsberg đi cùng ê-kíp, bố trí cảnh quay cho bộ phim được thực hiện đồng thời. Sam Shepard ban đầu được lựa chọn để dựng cảnh, song sau đó được đi cùng đoàn diễn trong vai trò phát ngôn viên.
Được bắt đầu từ cuối năm 1975 tới hết nửa đầu năm 1976, chuyến lưu diễn giúp Dylan quảng bá thành công album sau đó, Desire, với rất nhiều sáng tác mới của anh mang phong cách kể-chuyện-xê-dịch, minh chứng những ảnh hưởng rõ ràng từ cộng tác viên mới – nhà biên kịch Jacques Levy. Một nửa số buổi diễn trong chuyến lưu diễn năm 1976 này được trình chiếu trên truyền hình trong chương trình mang tên Hard Rain, rồi sau đó được đưa vào bản LP Hard Rain; không có một sản phẩm nào khác về chuyến lưu diễn được biết tới và có được đánh giá tốt hơn album trên cho tới tận album mang tên Live 1975, ra mắt năm 2002.
Chuyến lưu diễn Revue giúp Dylan có được bộ phim dài gần 4 tiếng mang tên Renaldo and Clara với lối kể chuyện tùy hứng và lộn xộn, bao gồm các hoạt cảnh trên sân khấu và hồi tưởng. Được phát hành vào năm 1978, bộ phim nhận được nhiều lời chê bai, thậm chí gay gắt và chỉ tồn tại trong thời gian rất ngắn ở các rạp chiếu. Cuối năm, Dylan thực hiện bản chỉnh sửa, rút gọn bộ phim còn 2 tiếng với nội dung chủ yếu là những phần trình diễn sân khấu, góp phần giúp bộ phim có được những đón nhận tích cực hơn.
Tháng 11 năm 1976, Dylan tham gia buổi diễn "chia tay" The Band cùng Eric Clapton, Joni Mitchell, Muddy Waters, Van Morrison và Neil Young. Buổi diễn được đạo diễn Martin Scorsese quay lại thành bộ phim nổi tiếng The Last Waltz (1978) với phân nửa là phần trình diễn của Dylan. Cùng năm, anh cũng sáng tác ca khúc song ca "Sign Language" cho album No Reason to Cry của Clapton.
Dylan dành hầu hết năm 1978 cho chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới với 114 buổi diễn tại Nhật Bản, vùng Viễn Đông, châu Âu và Mỹ và tổng số khán giả lên tới 2 triệu người. Trong quá trình thực hiện, Dylan có nhờ tới 8 ban nhạc khác nhau, cùng với đó là 3 ca sĩ hát nền chuyên nghiệp. Những buổi diễn tại Nhật vào tháng 2 và 3 được thu âm thành album trực tiếp Bob Dylan at Budokan. Tuy nhiên, các đánh giá lại khá trái chiều. Robert Christgau chỉ cho album điểm C+ với lời đánh giá khá bi quan, trong khi Janet Maslin của tờ Rolling Stone lại lên tiếng bảo vệ khi cho rằng đây là "ấn bản trực tiếp cuối cùng của những ca khúc ngày xưa với mục đích giải phóng Dylan khỏi hình ảnh nguyên gốc." Khi chuyến lưu diễn tới Mỹ vào tháng 9 năm 1978, anh đã né tránh báo chí khi thay đổi toàn bộ hình thức của chuyến lưu diễn dưới tên Las Vegas Tour. Chuyến lưu diễn năm 1978 giúp Dylan kiếm được khoản tiền khổng lồ vào thời điểm đó, 20 triệu USD, và anh cũng tiết lộ với tờ Los Angeles Times rằng mình cần phải trả vài khoản nợ vì "Tôi đã từng có những năm tồi tệ. Tôi đã đầu tư cả đống tiền cho phim ảnh, để xây biệt thự... và thủ tục ly hôn ở California cũng rất tốn kém." Album được Michael Gray miêu tả: _"Sau Blood On The Tracks, đây có lẽ là sản phẩm tốt nhất của Dylan kể từ thập niên 1970: một album đặc biệt minh họa lại quãng thời gian đặc biệt trong cuộc đời của Dylan."_ Tuy nhiên, thực tế album gặp nhiều vấn đề vì chất lượng thu âm và chỉnh âm tồi (một phần vì kinh nghiệm tổ chức thu âm kém cỏi của Dylan) với phần chơi nhạc cụ tạp nham chỉ được chỉnh sửa sau này qua ấn bản CD năm 1999 với một vài ca khúc đạt chất lượng tốt hơn.
Kitô giáo
Tới cuối thập niên 1970, Dylan trở thành tín đồ Kitô giáo tái sinh và cho phát hành 2 album nhạc phúc âm Kitô giáo. Slow Train Coming (1979) được thực hiện với phần chơi guitar điện bởi Mark Knopfler (từ Dire Straits) và sản xuất bởi một nhân vật tiếng tăm trong dòng nhạc R&B, Jerry Wexler. Wexler sau này kể lại rằng Dylan đã cố gắng cảm hóa ông trong thời gian thu âm album, và ông đáp lại: "Này Bob, cậu đang nói chuyện với một gã Do Thái 62 tuổi vô thần đấy! Hãy tập trung vào album đi." Album giúp Dylan đoạt giải Grammy cho Trình diễn giọng nam xuất sắc nhất trong ca khúc "Gotta Serve Somebody". Album thứ 2 cùng chủ đề, Saved (1980), nhận được nhiều đánh giá lẫn lộn và được cây viết Michael Gray miêu tả "thứ gần gũi với album trước đó mà Dylan vừa thực hiện, kiểu Slow Train Coming II hoặc thấp hơn". Trong những chuyến lưu diễn cuối năm 1979 đầu năm 1980, Dylan không trình diễn bất cứ ca khúc nào thời kỳ trước đó, và anh đưa lên sân khấu cả những quan điểm về đức tin của mình, ví dụ như:
:"Nhiều năm trước họ... nói rằng tôi là một nhà truyền đạo. "Không, tôi không phải", nhưng họ vẫn nói "Có, anh là một nhà truyền đạo", tôi liền đáp "Không phải tôi". Và họ vẫn cứ nhắc lại "Cậu chắc chắn là một nhà truyền đạo", họ đã cố gắng thuyết phục tôi như vậy. Nay tôi đã giác ngộ và tôi nói Jesus là câu trả lời của tôi. Giờ họ nói "Bob Dylan không phải là một người truyền đạo!", có vẻ họ không chấp nhận nổi sự thay đổi này."
Việc Dylan trở thành tín đồ Kitô giáo tái sinh không được nhiều người biết tới, chung quy chỉ trong số những người hâm mộ và những người bạn nhạc sĩ. Không lâu trước khi bị ám sát, John Lennon cho thu âm ca khúc "Serve Yourself" để đáp trả lại sáng tác "Gotta Serve Somebody" của Dylan. Năm 1981, nhà báo Stephen Holden viết trên tờ New York Times rằng "không phải tuổi tác (lúc này Dylan đã 40 tuổi) hay những câu chuyện phổ biến về Kitô-giáo-tái-sinh đã làm hủy hoại cá tính mang tính biểu tượng của anh".
Thập niên 1980
nhỏ|phải|Dylan trình diễn tại Toronto ngày 18 tháng 4 năm 1980 Cuối năm 1980, Dylan đi diễn hàng loạt chương trình nhỏ lẻ rồi đặt tên A Musical Retrospective bao gồm toàn những ca khúc nổi tiếng từ những năm 1960. Album Shot of Love được phát hành vào mùa xuân năm sau đó với nội dung là những sáng tác mới của anh từ hơn 2 năm trở lại, kể cả vài ca khúc Kitô giáo. Ca khúc "Every Grain of Sand" lấy ca từ từ đoạn thơ của William Blake.
Trong những năm 1980, những đánh giá về các sản phẩm của Dylan là rất trái chiều, từ hài lòng thỏa mãn trong Infidels (1983) cho tới chỉ trích gay gắt với Down in the Groove (1988). Nhiều nhà phê bình như Michael Gray cho rằng những album trong thập niên 1980 của Dylan thể hiện rõ ràng việc thiếu chú trọng tới kỹ thuật phòng thu cũng như việc anh không thể viết nên được những sáng tác xuất sắc. Điển hình là trong quá trình thực hiện Infidels mà Dylan có nhờ tới Mark Knopfler trong vai trò guitar và sản xuất, rất nhiều ca khúc hay lại bị Dylan loại ra khỏi kế hoạch thu âm. Những đánh giá tốt nhất được dành cho "Blind Willie McTell" tưởng nhớ tới ngôi sao nhạc blues mới qua đời trong hoạt động nhân quyền của cộng đồng người Mỹ gốc Phi, ngoài ra còn có "Foot of Pride" và "Lord Protect My Child". Tất cả những ca khúc này sau đó được đưa vào bootleg tuyển tập The Bootleg Series Volumes 1–3 (Rare & Unreleased) 1961–1991.
Trong khoảng từ tháng 7 năm 1984 tới tháng 3 năm 1985, Dylan thu âm Empire Burlesque. Arthur Baker, người từng chỉnh âm các ca khúc của Bruce Springsteen và Cyndi Lauper, được mời làm kỹ thuật viên cho album này. Baker sau này nói rằng ông cảm thấy mình được Dylan tin tưởng góp phần tạo nên thứ âm thanh "một chút đương đại hơn" của album. Quan điểm của anh ngay lập tức bị đánh giá là hoang đường, nhưng lại góp phần giúp Willie Nelson thực hiện một loạt chương trình sau đó, Farm Aid, nhằm hỗ trợ việc trang trải các khoản nợ của những người nông dân Mỹ.
Tháng 4 năm 1986, Dylan có một trải nghiệm nhỏ vào thế giới nhạc rap khi tham gia góp giọng vào ca khúc "Street Rock" trong một album Kingdom Blow của Kurtis Blow. Album tiếp theo của anh, Knocked Out Loaded, được phát hành vào tháng 7 năm 1986 với 3 ca khúc hát lại (của Little Junior Parker, Kris Kristofferson và bản thánh ca phúc âm truyền thống "Precious Memories"), 3 ca khúc cộng tác sáng tác (cùng Tom Petty, Sam Shepard và Carole Bayer Sager) và 2 sáng tác mới của Dylan. Một đánh giá bình luận "bản thu đúc kết từ rất nhiều con đường sai lầm nhằm có được sự lựa chọn phù hợp, và một trong số những con đường sai lầm đó đã từng kéo anh đi xuống nơi mà người đời từng gọi là dấu chấm hết. Tới năm 1986, một bản thu bất ngờ nhưng không hoàn toàn tình cờ nữa của Dylan cũng không thể góp phần giúp chúng có thể đỡ thất bại hơn." Đây chính là album đầu tiên của Dylan kể từ Freewheelin' (1963) không thể vào top 50 tại các bảng xếp hạng. Tuy nhiên, nhiều bài phê bình cùng đồng ý rằng ca khúc 11-phút đồng sáng tác với Sam Shepard, "Brownsville Girl", là một siêu phẩm nữa của Dylan.
Trong những năm 1986 và 1987, Dylan tích cực đi lưu diễn cùng Tom Petty and the Heartbreakers, cùng Petty hát chính trong nhiều ca khúc tại các buổi diễn. Anh cũng đi lưu diễn cùng The Grateful Dead vào năm 1987, đi kèm là album mang tên Dylan & The Dead. Tuy nhiên album lại có được phản hồi khá tiêu cực. AllMusic viết "có lẽ là album dở nhất của cả Dylan lẫn Greatful Dead". Sau khi đi diễn cùng những nghệ sĩ trên, Dylan bắt đầu chương trình trình diễn kéo dài của mình mang tên Never Ending Tour vào ngày 7 tháng 6 năm 1988 với một ban nhạc chơi lót cố định của nghệ sĩ guitar G. E. Smith. Dylan vẫn đi diễn cùng với ban nhạc trên với một chút thay đổi nhỏ về thành viên suốt 20 năm sau đó.
nhỏ|phải|Bob Dylan trên sân khấu Barcelona, Tây Ban Nha năm 1984 Năm 1987, Dylan tham gia diễn xuất trong bộ phim Hearts of Fire của đạo diễn Richard Marquand, thủ vai nhân vật Billy Parker – một ngôi-sao-nhạc-rock-bị-lãng-quên buộc phải trở thành gã nông dân chăn nuôi gia cầm sau khi người tình tuổi thiếu niên (Fiona) chia tay anh để tới với tay ca sĩ thuộc trào lưu synth-pop từ nước Anh (Rupert Everett). Dylan trực tiếp viết 2 ca khúc nhạc phim là "Night After Night" và "I Had a Dream About You, Baby", cùng với đó là hát lại sáng tác "The Usual" của John Hiatt. Bộ phim nhanh chóng thảm bại về cả mặt chuyên môn cũng như doanh thu. Dylan được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll vào tháng 1 năm 1988 với lời đề cử từ fan hâm mộ lâu năm, Bruce Springsteen: "Bob giải phóng tâm hồn bạn như cách Elvis từng giải phóng cơ thể bạn vậy. Anh ấy đã chứng minh với chúng ta rằng cho dù âm nhạc vốn ban đầu chỉ mang tính tự nhiên bộc phát, song không vì thế mà nó lại thiếu tính trí tuệ."
Khi Dylan cho phát hành album Down in the Groove vào tháng 5 năm 1988, doanh số thu được nhìn chung là kém hơn hẳn album trước đó của anh. Michael Gray viết: "Cái nhan đề quá đỗi hiển nhiên không làm lộ ra bất cứ khái niệm nào trong đó. Đây lại là một cách làm giảm giá trị quan điểm cho rằng mỗi album mới của Dylan mang tới một điều gì đó mới mẻ." Những lời chê bai và thất bại thương mại của album nhanh chóng bị lãng quên bởi sự xuất hiện của Traveling Wilburys. Dylan đồng sáng lập nên siêu ban nhạc trên cùng những người bạn thân George Harrison, Jeff Lynne, Roy Orbison và Tom Petty vào cuối năm 1988, và album đầu tay đa-Bạch kim của họ, Traveling Wilburys Vol. 1, đạt tới vị trí số 3 tại bảng xếp hạng ở Mỹ Cho dù Orbison đột ngột qua đời vào tháng 12 năm 1988, 4 thành viên còn lại tiếp tục thu âm và cho ra mắt album thứ hai của mình vào tháng 5 năm 1990 với một nhan đề dễ gây nhầm lẫn, Traveling Wilburys Vol. 3.
Dylan kết thúc thập niên đầy biến động của mình với siêu phẩm Oh Mercy, được sản xuất bởi Daniel Lanois. Michael Gray đánh giá về album này "Vô cùng chú trọng cách viết, chất giọng đặc biệt, sự ấm áp từ âm nhạc và một sự chuyên nghiệp đầy bản lĩnh, tất cả những yếu tố liên kết lại tạo nên album xuất sắc nhất thập niên 1980 của Dylan." Ca khúc "Most of the Time", một sáng tác về tình yêu lỡ dở, sau này được đưa vào trong bộ phim High Fidelity, trong khi "What Was It You Wanted?" ghi nhận nhiều giáo lý và cả những thái độ gượng gạo qua đánh giá từ những chuyên gia cũng như người hâm mộ. Hình ảnh mang tính tôn giáo trong ca khúc "Ring Them Bells" gây chú ý tới nhiều nhà phê bình vì những quan điểm về đức tin.
Thập niên 1990
nhỏ|phải|Dylan trình diễn cùng nhạc cụ điện trên sân khấu tại Stockhom, Thụy Điển năm 1996 Năm 1990, Dylan phát hành album Under the Red Sky đối lập hoàn toàn với Oh Mercy, bao gồm rất nhiều ca khúc đơn giản như "Under the Red Sky" và "Wiggle Wiggle". Album này được ghi dành tặng cho "Gabby Goo Goo", sau này được giải thích là tên gọi cho con gái của Dylan với Carolyn Dennis – Desiree Gabrielle Dennis-Dylan – lúc đó mới 4 tuổi. Những nghệ sĩ khách mời trong album bao gồm George Harrison, Slash (từ Guns N' Roses), David Crosby, Bruce Hornsby, Stevie Ray Vaughan và Elton John. Cho dù được thực hiện với đội hình toàn siêu sao, bản thu lại nhận được khá nhiều chỉ trích và nhìn chung là ế ẩm.
Dylan được vinh danh tại Giải Grammy Thành tựu trọn đời vào năm 1991 bởi diễn viên người Mỹ Jack Nicholson. Sự kiện này trùng với lúc nổ ra Chiến tranh vùng Vịnh chống lại chế độ của Saddam Hussein, vì thế Dylan đã trình diễn ca khúc "Masters of War" khi lên nhận giải. Dylan chỉ nói lời cám ơn ngắn gọn: "Cha tôi đã từng nói: "Con trai, sẽ có ngày con sẽ trở nên nhơ nhuốc tới mức cả mẹ lẫn cha phải từ con. Nếu điều đó xảy ra, hẳn là Chúa đã tin tưởng để tài năng của con đưa con về với con đường của mình."" Cảm xúc trong câu nói này được lấy cảm hứng từ một trích dẫn của nhà trí thức người Đức gốc Do Thái thế kỷ 19 Rabbi Samson Raphael Hirsch.
Những năm kế tiếp chứng kiến một Dylan trở về với phong cách nguyên gốc với 2 album nhạc folk là Good as I Been to You (1992) và World Gone Wrong (1993), sử dụng nhiều diễn giải và guitar acoustic. Rất nhiều đánh giá đã bình luận và tán dương vẻ đẹp bình lặng trong "Lone Pilgrim", được sáng tác bởi một giáo viên từ thế kỷ 19 và được Dylan thể hiện với sự tôn kính rõ rệt. Tháng 11 năm 1994, anh thực hiện 2 buổi diễn cho chuỗi chương trình MTV Unplugged, ngoài ra anh cũng trình bày mong muốn được hát lại những ca khúc truyền thống cho chương trình được đạo diễn bởi Sony vốn chú trọng hơn tới những ca khúc bán chạy trên thị trường. Album theo kèm, MTV Unplugged, bao gồm ca khúc "John Brown", một bản thu từ năm 1963 song chưa từng được phát hành, đề cập tới sự tàn phá của chiến tranh và chủ nghĩa hiếu chiến.
Với hàng loạt sáng tác được viết trong suốt mùa đông tại trang trại của mình ở Minnessota, Dylan liền đặt hẹn với nhà sản xuất Daniel Lanois để thu âm tại phòng thu Criteria Studios vào tháng 1 năm 1997. Cuối mùa xuân năm đó, ngay trước khi album phát hành, Dylan phải nhập viện để điều trị bệnh tim. Chuyến lưu diễn châu Âu bị hủy bỏ, song anh đã nhanh chóng hồi phục và sớm ra viện "Tôi cứ nghĩ là tôi đã phải sớm gặp Elvis rồi". Anh quay trở lại với âm nhạc vào giữa mùa hè, trình diễn trước Giáo hoàng Gioan Phaolô II tại Diễn đàn thánh thể thế giới tại Bologna, Ý. Giáo hoàng đọc trước 200.000 tín đồ bài thuyết pháp có nội dung dựa trên phần lời ca khúc "Blowin' in the Wind" của Dylan.
Tháng 9, Dylan cho phát hành album cộng tác với Lanois mang tên Time Out of Mind. Mang theo nhiều nhận định chua cay và những suy tư tối màu, sản phẩm tổng hợp những sáng tác hoàn toàn cá nhân đầu tiên của Dylan sau 7 năm nhận được nhiều lời ngợi ca. Một đánh giá viết: "Bản thân những ca khúc đã đầy sức mạnh vô song, bổ sung vào bộ sưu tập những sáng tác xuất sắc nhất của Dylan từ nhiều năm nay." Sản phẩm này cũng góp phần giúp Dylan lần duy nhất trong sự nghiệp giành được Giải Grammy cho Album của năm.
Tháng 12 năm 1997, Tổng thống Mỹ Bill Clinton mời Dylan tới tham dự lễ vinh danh tại Kennedy Center Honor tại khu nhà phía Đông của Nhà Trắng với lời tựa: "Ông có lẽ là người có nhiều ảnh hưởng nhất tới thế hệ của tôi hơn bất kể một nghệ sĩ nào khác. Giọng hát và ca từ của ông không phải bao giờ cũng dễ nghe, nhưng sự nghiệp của Dylan chưa bao giờ dễ dàng. Ông đã gây chấn động nền hòa bình và dậy nên những suy nghĩ về sức mạnh."
Thập niên 2000
Dylan bắt đầu thiên niên kỷ mới với giải thưởng Polar Music được trao vào tháng 5 năm 2000, tiếp theo đó là giải Oscar đầu tiên trong sự nghiệp với ca khúc "Things Have Changed" cho bộ phim Wonder Boys vào tháng 3 năm 2001.
Love and Theft được phát hành vào ngày 11 tháng 9 năm 2001. Thu âm cùng ban nhạc lưu diễn của mình, Dylan đã tự tay sản xuất album này dưới nghệ danh Jack Frost. Album có được nhiều đánh giá tích cực, theo kèm là vài đề cử Grammy. Nhiều cây bút cho rằng Dylan đã mở rộng phong cách của mình khi kết hợp rockabilly, Western swing, jazz và thậm chí lounge ballads. Love and Theft cũng gây nên nhiều tranh cãi khi tờ The Wall Street Journal cho công bố nhiều điểm tương đồng đáng ngạc nhiên trong phần ca từ với nội dung cuốn sách Confessions of a Yakuza của nhà văn Nhật Bản Junichi Saga.
Năm 2003, Dylan quay trở lại với khái niệm "tái sinh" để thực hiện dự án CD mang tên Gotta Serve Somebody: The Gospel Songs of Bob Dylan. Cùng năm, bộ phim Masked & Anonymous được ra mắt mà ông cùng hợp tác đạo diễn với Larry Charles dưới nghệ danh Sergei Petrov. Dylan thủ vai nhân vật chính, Jack Fate, bên cạnh dàn diễn viên bao gồm Jeff Bridges, Penélope Cruz và John Goodman. Bộ phim nhận được nhiều đánh giá trái chiều: nhiều ý kiến cho rằng đây là "một mớ hỗn độn", trong khi số khác lại đánh giá đây là một sản phẩm nghệ thuật nghiêm túc.
Tháng 10 năm 2004, Dylan cho ra mắt phần đầu cuốn tự truyện, Chronicles: Volume One. Cuốn sách sớm làm tiêu tan sự trông ngóng từ khán giả. Dylan dành 3 chương đầu tiên để nói về những năm đầu tại New York trong khoảng từ 1961–1962, tuy nhiên lại lờ đi những chi tiết trong giai đoạn giữa thập niên 1960 khi danh tiếng của ông lên tới đỉnh điểm. Ông cũng dành nhiều chương cho những album New Morning (1970) và Oh Mercy (1989). Cuốn sách sau đó có mặt trong danh sách những đầu sách bán chạy nhất năm của tạp chí The New York Times vào tháng 12 năm 2004 cũng như được đề cử tại giải thưởng National Book Award.
Đạo diễn lừng danh Martin Scorsese thực hiện bộ phim No Direction Home nói về tiểu sử của Dylan, trình chiếu 2 ngày 26-27 tháng 9 năm 2005 trên kênh BBC 2 tại Anh và PBS tại Mỹ. Bộ phim tập trung nhiều vào giai đoạn kể từ khi Dylan tới New York vào năm 1961 cho tới tai nạn xe máy vào năm 1966 với lời kể của Suze Rotolo, Liam Clancy, Joan Baez, Allen Ginsberg, Pete