✨Blücher (tàu tuần dương Đức)

Blücher (tàu tuần dương Đức)

Blücher là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp Admiral Hipper đã phục vụ cho Hải quân Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tham gia Chiến dịch Weserübung, cuộc tấn công nhằm xâm chiếm Na Uy, chiếc tàu chiến mới nhất của Hải quân Đức chỉ vừa mới đưa ra phục vụ được sáu tháng, đã bị pháo phòng thủ duyên hải của Na Uy đánh chìm trong Trận chiến eo biển Drøbak ngay vào ngày đầu tiên của chiến dịch 9 tháng 4 năm 1940.

Thiết kế và chế tạo

Con tàu được đặt tên theo Thống chế Phổ Gebhard Leberecht von Blücher, người đã cùng với Công tước Wellington đánh thắng Napoléon Bonaparte trong trận Waterloo. Blücher thuộc một lớp tàu bao gồm năm chiếc, trong đó nó cùng với Admiral HipperPrinz Eugen được hoàn tất và phục vụ cùng Hải quân Đức trong Thế Chiến II; chiếc thứ tư, Lützow, được bán cho Liên Xô vào năm 1939 trước khi hoàn tất; và một chiếc thứ năm, Seydlitz, được cải biến thành một tàu sân bay nhưng chưa bao giờ hoàn tất.

Blücher được đặt hàng vào ngày 30 tháng 10 năm 1934 và được chế tạo bởi hãng đóng tàu Deutsche Werke tại Kiel. Nó được đặt lườn vào ngày 15 tháng 8 năm 1935, được hạ thủy vào ngày 8 tháng 6 năm 1937 và được đưa ra hoạt động vào ngày 20 tháng 9 năm 1939.

Lịch sử hoạt động

Blücher là soái hạm của Phân Hạm đội 5, bao gồm tàu tuần dương hạng nặng Lützow (nguyên là chiếc Deutschland), tàu tuần dương hạng nhẹ Emden cùng ba tàu phóng lôi nhỏ và tám tàu quét mìn, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Oskar Kummetz. Chúng có nhiệm vụ chuyên chở lực lượng để chiếm giữ Oslo, thủ đô của Na Uy vào giai đoạn đầu của Chiến dịch Weserübung.

Admiral Hipper, con tàu chị em với Blücher, cũng tham gia vào chiến dịch xâm chiếm Na Uy với nhiệm vụ đổ bộ lực lượng xuống Trondheim, thành phố lớn thứ ba của Na Uy ở khoảng giữa bờ biển Đại Tây Dương. Nó hoàn thành được nhiệm vụ, cho dù bị tàu khu trục Anh HMS Glowworm húc phải gây hư hại. Lực lượng đổ bộ từ Admiral Hipper đã chiếm được thành phố vào những giờ đầu tiên, phất cao lá cờ Đức Quốc xã trên pháo đài Kristiansten cổ cùng các tòa nhà chính quyền thành phố ngay trước khi đa số các cư dân thức giấc.

Trong nhóm của Blücher, việc hải đội Đức bị chiếc tàu tuần tra Na Uy Pol III tấn công ngay trước nữa đêm ngày 8 tháng 4 năm 1940 đã báo động cho lực lượng phòng thủ của Na Uy. Blücher, chở theo 1000 binh lính, dẫn đầu đội hình hàng dọc của phân hạm đội Đức tiến đến gần pháo đài Oscarsborg không được chiếu sáng trên đảo Nam Kaholmen trong eo biển Drøbak. Viên tư lệnh hải đội Đức "vẫn giữ dàn pháo chính của con tàu thẳng hàng trước sau theo trục dọc trong một thái độ khinh thường sự phòng thủ của phía Na Uy." trái|Một trong hai khẩu pháo 28 cm trên pháo đài phòng duyên Oslo đã tham gia vào việc đánh chìm Blücher Đến 04 giờ 21 phút, các khẩu pháo chính của pháo đài khai hỏa nhắm vào Blücher. Ba khẩu pháo 280 mm (11 inch) do hãng Krupp của Đức chế tạo, mang tên Moses, Aaron và Josva, được lắp đặt tại pháo đài vào năm 1893; tuy nhiên chỉ có hai khẩu được vận hành do sự thiếu hụt pháo thủ được huấn luyện. Các khẩu pháo này rõ ràng là đã lạc hậu, nên những người phòng thủ đã không khai hỏa cho đến khi những chiếc tàu chiến lọt vào tầm bắn thẳng, khoảng 1.600-1.800 m. Quả đạn pháo 28 cm thứ nhất đã bắn trúng Blücher ngay phía trước cột ăn-ten sau, gây một đám cháy lớn tại khu vực giữa tàu cho đến cột ăn-ten trước. Quả đạn pháo thứ hai không lâu sau đó bắn trúng bệ tháp pháo 20,3 cm phía trước, làm bắn tung mọi thứ xuống biển và phát sinh thêm các đám cháy trên tàu. Chỉ có thời gian cho dàn pháo chính của pháo đài bắn hai phát đạn pháo này, do thời gian nạp đạn trở lại chậm chạm khi chỉ có 30 người lính nghĩa vụ không được huấn luyện vận hành chúng vào lúc đó. và đã thành công một phần trong việc áp chế hỏa lực hạng nhẹ của chiếc tàu chiến khi Blücher đi ngang chậm chạp trước pháo đài. Khẩu đội Husvik phải bị bỏ lại khi Blücher đi ngang trước mặt nó và dùng pháo phòng không hạng nhẹ bắn trực tiếp vào vị trí của chúng. Chúng đã hoạt động tốt. Blücher bị đánh trúng hai quả trực tiếp: một gần tháp pháo Anton phía trước và quả thứ hai vào phòng động cơ, khiến nó trôi nổi không thể kiểm soát bên trong vũng biển hẹp. Các quả ngư lôi đã kết thúc số phận của nó. Những chiếc còn lại của phân hạm đội, nhầm lẫn những cú đánh trúng bằng ngư lôi rằng Blücher đã trúng phải mìn; đã rút lui ra khỏi vũng biển, khiến cho việc xâm chiếm Oslo không thể tiến hành vào lúc bình minh như dự định. Trước khi những chiếc còn lại của lực lượng tấn công rút ra được khoảng cách an toàn, Lützow bị khẩu đội Kopaas bắn trúng ba phát, và các tháp pháo AntonBruno của nó bị loại khỏi vòng chiến. Chiếc Lützow bị hư hại phải chạy lui ra hết tốc độ, ẩn náu trong làn sương mù và bên ngoài tầm bắn của các khẩu đội pháo phòng duyên Na Uy. Dự tính cho Blücher mắc cạn lên bán đảo Nesodden đã không thể thực hiện.

Blücher bị chìm trong vũng biển Oslofjord

Vào lúc 06 giờ 00, Blücher bị hư hại và đang chìm buông neo tại Askholmen, về phía Nam Oslo và bên ngoài tầm bắn của các khẩu đội pháo phòng duyên Na Uy, tận dụng hướng gió và dòng chảy nhằm đẩy đuôi con tàu sát gần vào Askholmene để cứu được nhiều hơn thủy thủ và binh lính trên tàu. Ngư lôi của nó được phóng vào hai bên bờ của vũng biển để tránh bị phát nổ ngay trên tàu. Lúc 06 giờ 23 phút, đám cháy lan đến hầm đạn 10,5 cm khiến nó nổ tung, khiến hư hại lan rộng. Vào lúc 07 giờ 00, không còn hy vọng kiểm soát được các đám cháy, lệnh bỏ tàu được đưa ra. Đến 07 giờ 22 phút, Blücher lật úp và chìm ở tọa độ . Trong số 2.202 thủy thủ và binh lính trên tàu, khoảng 830 người đã thiệt mạng, trong đó 320 người thuộc thủy thủ đoàn. Đa số bị chết chìm hoặc bị đốt cháy bởi đám cháy các vết dầu loang chung quanh xác tàu. Những người sống sót đã bơi vào bờ trên cả hai phía của vũng biển. Thủy thủ của Blücher được lệnh nhường lại áo phao cho binh lính trên tàu (mọi thủy thủ đều được cho là có thể bơi được), nhờ đó đã cứu được sinh mạng một số lớn binh lính. Viên chỉ huy của nó, Đại tá hải quân Heinrich Woldag, sống sót sau khi chìm tàu, nhưng bị thiệt mạng trong một vụ rớt máy bay tám ngày sau đó.

Việc trì hoãn cuộc đổ bộ lên Oslo đã tạo điều kiện cho phép Hoàng gia Na Uy, nội các và quốc hội kịp triệt thoái. Kho dự trữ vàng của Na Uy cũng tránh không lọt vào tay những kẻ xâm chiếm, và cuối cùng được vận chuyển ra nước ngoài để Na Uy sử dụng trong chiến tranh.

Xác tàu đắm

nhỏ|trái|Một trong các mỏ neo của Blücher tại [[Aker Brygge.]] Blücher ở lại nơi nó bị đắm trong vũng biển Oslofjord, khoảng 3.250 m phía Bắc dàn pháo chính của pháo đài Oscarsborg. Nằm ở độ sâu khoảng 90 m, hầu như bị lật úp và tất cả các tháp pháo chính đều bị rơi ra khỏi bệ, cũng như một số khẩu 10,5 cm phòng không. Hai trong số các mỏ neo của con tàu sau đó được trục vớt, một chiếc đang được trưng bày tại bến tàu của Aker Brygge tại Oslo, chiếc kia ở Drøbak.

Khi Blücher rời Swinemünde, nó có khoảng 2.670 m³ (2.500 tấn) dầu trên tàu. Một số đã được sử dụng trên đường đi đến Na Uy, một số đã bị mất lúc chìm tàu, nhưng nó vẫn tiếp tục rò rỉ dầu. Vào năm 1991, mức độ rò rỉ đã tăng lên đến mức 50 lít mỗi ngày, là nguy cơ đe dọa cho môi trường. Chính phủ Na Uy quyết định cho tháo rút dầu ra khỏi xác tàu đắm càng nhiều càng tốt. Vào tháng 10 năm 1994, hãng Rockwater AS cùng các thợ lặn sâu của các công ty khai thác dầu khí tại Bắc Hải đã khoan đến 133 thùng chứa nhiên liệu trên tàu và rút ra được 1.000 tấn dầu; 47 thùng chứa khác không thể tiếp cận và có thể vẫn còn chứa dầu. Sau khi trải qua quá trình làm sạch, số dầu này được bán ra thị trường.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Blücher_** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _Admiral Hipper_ đã phục vụ cho Hải quân Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tham gia Chiến dịch Weserübung, cuộc tấn
**_Prinz Eugen_** (Vương công Eugène) là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _Admiral Hipper_ đã phục vụ cho Hải quân Đức Quốc Xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Được xem là
**_Deutschland_** (sau đổi tên thành **_Lützow_**), là chiếc dẫn đầu cho lớp tàu của nó đã phục vụ cho Hải quân Đức trước và trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nguyên được người Đức
**_Admiral Hipper_** (Đô đốc Hipper) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đức Quốc xã, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu tuần dương _Admiral Hipper_ đã phục vụ trong Chiến tranh
**_Emden_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đức, là chiếc duy nhất trong lớp của nó, và là tàu chiến đầu tiên được Đức chế tạo sau Chiến tranh Thế giới
**Lớp tàu tuần dương _Scharnhorst**_ là lớp tàu tuần dương bọc thép thông thường sau cùng được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo. Bao gồm hai chiếc _Scharnhorst_ và _Gneisenau_, chúng lớn hơn lớp
nhỏ|phải|Sơ đồ cắt ngang một chiếc tàu tuần dương bọc thép tiêu biểu trình bày sơ đồ bảo vệ. Những đường đỏ là các lớp sàn tàu bọc thép phía trên và phía giữa cùng
**Lớp tàu tuần dương _Admiral Hipper**_ là một loạt năm tàu tuần dương hạng nặng, trong đó ba chiếc đã phục vụ cùng Hải quân của Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**SMS _Blücher**_ là chiếc tàu tuần dương bọc thép cuối cùng được Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_) chế tạo. Được thiết kế để bắt kịp với những gì mà tình báo Đức tin
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
**_U-333_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**SMS _Von der Tann**_ là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo, cũng là chiếc tàu chiến chủ lực đầu tiên của Đức vận hành bằng turbine hơi
**Gebhard Leberecht von** **Blücher, Thân vương xứ Wahlstatt** (; 21 tháng 12 năm 1742 – 12 tháng 9 năm 1819), là _Graf_ (Bá tước), sau này được nâng lên thành _Fürst_ (Thân vương có chủ
**SMS _Derfflinger**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Nó là chiếc dẫn đầu trong lớp của
**HMS _Lion**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, vốn được đặt tên lóng là những "Con mèo Tráng lệ" (Splendid Cats).
**SMS _Moltke**_ là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức, tên được đặt theo Thống chế Helmuth von Moltke, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ vào
**SMS _Seydlitz**_ là một tàu chiến-tuần dương tải trọng 25.000 tấn được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt hàng vào năm 1910
**HMS _New Zealand**_ là một trong số ba chiếc tàu chiến-tuần dương lớp _Indefatigable_ được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo để bảo vệ các lãnh thổ của Đế quốc Anh. Được hạ
**Danh sách các tàu chiến của Hải quân Đế quốc Đức** bao gồm tất cả các con tàu được đưa vào phục vụ trong Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_) của Đức, bao gồm
**SMS _Yorck**_ là chiếc thứ hai cũng là chiếc sau cùng trong lớp tàu tuần dương bọc thép _Roon_ của Hải quân Đế quốc Đức. _Yorck_ được đặt tên theo Ludwig Yorck von Wartenburg, vị
**HMS _Princess Royal**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Là chiếc thứ hai trong lớp _Lion_ bao gồm hai chiếc, nó được
**HMS _Tiger_ (1913)** là một tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc duy nhất trong lớp của nó. Được chế
**HMS _Indomitable**_ là một tàu chiến-tuần dương thuộc lớp _Invincible_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã hoạt động tích cực trong cuộc
**SMS _Kaiser**_ (hoàng đế) là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm dreadnought mang tên nó được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kaiser_ được đóng
**SMS _Friedrich der Große**_ (_Friedrich Đại Đế_) là chiếc thứ hai trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Friedrich der Große_
**SMS _Prinzregent Luitpold**_, tên đặt theo Hoàng tử nhiếp chính Luitpold của Bavaria, là chiếc thứ năm cũng là chiếc cuối cùng trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong
**SMS _Grosser Kurfürst**_ là chiếc thứ hai trong lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Grosser Kurfürst_ (còn có thể viết là
**SMS _Markgraf**_ là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Markgraf_ được đặt lườn vào tháng 11 năm
**_U-107_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**Trận Crete** (; ) là một trận đánh diễn ra tại đảo Crete của Hy Lạp giữa quân đội Đức Quốc xã và quân đội Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, bắt
**Chiến dịch _Weserübung**_ () là mật danh của cuộc tấn công do Đức Quốc xã tiến hành tại Đan Mạch và Na Uy trong Chiến tranh thế giới thứ hai, mở màn Chiến dịch Na
**SMS _König Albert**_, tên đặt theo Vua Albert của Saxony, là chiếc thứ tư trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất.
**_U-406_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-566_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**SMS _Wittelsbach**_ là chiếc dẫn đầu trong lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought _Wittelsbach_ của Hải quân Đế quốc Đức. _Wittelsbach_ được chế tạo tại xưởng tàu Kaiserliche Werft ở Wilhelmshaven, được đặt lườn vào năm
**_U-377_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-403_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**SMS _Mecklenburg**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Wittelsbach_ của Hải quân Đế quốc Đức. Nó được đặt lườn tại xưởng tàu AG Vulcan ở Stettin vào năm 1899 và được hoàn tất
**SMS _Wettin**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Wittelsbach_ của Hải quân Đế quốc Đức. Nó được chế tạo tại xưởng tàu Schichau ở Danzig; được đặt lườn vào năm 1899 và hoàn
**SMS _Zähringen**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Wittelsbach_ của Hải quân Đế quốc Đức. Nó được đặt lườn tại xưởng tàu Germaniawerft ở Kiel vào năm 1899; được hạ thủy vào ngày
**_U-589_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-594_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-590_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**SMS _Schwaben**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Wittelsbach_ của Hải quân Đế quốc Đức. Nó được chế tạo tại xưởng tàu Kaiserliche Werft ở Wilhelmshaven, được đặt lườn vào năm 1900 và
**Carl Friedrich Heinrich Reinhard Scheer** (30 tháng 9 năm 1863 – 26 tháng 11 năm 1928) là một Đô đốc của Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_). Scheer gia nhập hải quân vào năm
**Chiến dịch Na Uy** là tên gọi mà phe Đồng Minh Anh và Pháp đặt cho cuộc đối đầu trực tiếp trên bộ đầu tiên giữa họ và quân đội Đức Quốc xã trong chiến