✨Bảo tàng Quảng Ninh
Bảo tàng Quảng Ninh là bảo tàng công lập đầu ngành của tỉnh Quảng Ninh. Bảo tàng Quảng Ninh là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Quảng Ninh; thực hiện chức năng sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu di sản văn hóa, bằng chứng vật chất về lịch sử, văn hóa, thiên nhiên, con người Quảng Ninh và Việt Nam. Năm 2018, Ban Quản lý di tích và Danh thắng tỉnh Quảng Ninh được sát nhập vào Bảo tàng Quảng Ninh vì thế Bào tàng kiêm thêm nhiệm vụ hướng dẫn và tổ chức các hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh.
Tòa nhà mới của Bảo tàng Quảng Ninh khánh thành vào tháng 10 năm 2013 được nhận giải kiến trúc Ashui Awards, hạng mục Công trình của năm 2013 do Hội Quy hoạch phát triển Đô thị Việt Nam trao thưởng. Bảo tàng Quảng Ninh trở thành một điểm tham quan thu hút hàng trăm nghìn lượt khách du lịch mỗi năm và là một trong ba bảo tàng trên cả nước tự chủ hoàn toàn nguồn tài chính chi thường xuyên. Năm 1963, khu Hồng Quảng hợp nhất với tỉnh Hải Ninh thành tỉnh Quảng Ninh theo Nghị quyết của Quốc hội khóa II. Năm 1964, Bảo tàng tỉnh đổi tên thành Bảo tàng Quảng Ninh. Năm 1990, UBND tỉnh Quảng Ninh quyết định lấy trụ sở Công ty Xuất nhập khẩu Quảng Ninh để làm Bảo tàng Quảng Ninh, tại số 165, đường Nguyễn Văn Cừ (quốc lộ 18A), thị xã Hồng Gai nay là thành phố Hạ Long. Khu văn hóa thể thao Cột 3 bao gồm ba công trình chính được xây mới là Thư viện tỉnh, Bảo tàng tỉnh, Trung tâm tổ chức hội chợ và triển lãm tỉnh Quảng Ninh.
Tháng 5 năm 2012, Dự án đầu tư xây dựng công trình Bảo tàng - Thư viện tỉnh được UBND tỉnh phê duyệt. Công trình được khởi công vào tháng 8 năm 2012. Bảo tàng Quảng Ninh được thành lập lại theo Quyết định số 838/QĐ-SVHTTDL, ngày 26 tháng 6 năm 2013 của Sở Văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Quảng Ninh.
Ngày 13 tháng 10 năm 2013, cụm công trình Bảo tàng - Thư viện Tỉnh Quảng Ninh gồm 3 khối nhà Bảo tàng - Thư viện - Hội thảo được khánh thành nhân dịp kỉ niệm 50 năm thành lập tỉnh Quảng Ninh.
Ngày 7 tháng 12 năm 2021, Bảo tàng Quảng Ninh được thăng từ hạng II lên hạng I trong hệ thống Bảo tàng Việt Nam.
Kiến trúc và hệ thống trưng bày
Tòa nhà mới của Bảo tàng Quảng Ninh là một công trình kiến trúc hiện đại do kiến trúc sư Salvador Pérez Arroyo thiết kế liên danh với Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn quốc gia. Kiến trúc sư Salvador Pérez Arroyo còn có nhiều công trình kiến trúc lớn khác thiết kế tại tỉnh Quảng Ninh như Cung Quy hoạch triển lãm và hội chợ tỉnh, Tháp đồng hồ Hạ Long, Công viên hoa Hạ Long, Cổng tỉnh Quảng Ninh.
Năm 2014, Cụm công trình Bảo tàng - Thư viện tỉnh Quảng Ninh được nhận giải kiến trúc Ashui Awards, hạng mục Công trình của năm 2013 do Hội Quy hoạch phát triển Đô thị Việt Nam trao thưởng.
Ngoại thất
Mặt tiền Bảo tàng với hiện vật ngoài trời gồm than đá nguyên khối, tác phẩm điêu khắc đá và cây cảnh
Tòa nhà Bảo tàng Quảng Ninh là một khối hình hộp lớn, ngoại thất bao bọc bởi lớp kính cường lực màu đen được kiến trúc sư lấy cảm hứng từ than đá, một sản phẩm công nghiệp chủ đạo của tỉnh Quảng Ninh. Bảo tàng là một trong 3 khối nhà thuộc Cụm công trình, hai khối nhà còn lại là Nhà thư viện và Nhà hội thảo trưng bày. Các khối đều gồm 3 tầng và một tầng trệt, được kết nối với nhau bằng hệ thống hành lang trên cao. Lối vào chính ở tầng 1 với một hệ thống bậc thang dài và rộng kết nối từ mặt đường, có đường lên cho người khuyết tật. Bảo tàng có 6 thang máy đứng, 2 thang cuốn, 2 thang thủy lực dành cho người khuyết tật. Các tác phẩm điêu khắc có điêu khắc đá khối lớn và tượng công nhân mỏ, tên lửa, máy bay.
Nội thất
Tầng 1
Tiền sảnh tầng 1 với bộ xương cá voi và bè Trà Cổ đặc trưng của ngư dân địa phương Ngay vị trí tiền sảnh khi bước vào Bảo tàng là bộ xương cá voi nguyên vẹn kích thước rất lớn treo trên trần nhà cao và mô hình bè Trà Cổ (một dạng thuyền buồm cánh dơi vịnh Bắc Bộ). Bộ xương này là của một con cá voi chết dạt vào đảo Cán Đao, xã Ngọc Vừng, huyện Vân Đồn ngày 18 tháng 10 năm 1994. Trong nhiều năm, con cá voi được các chuyên gia bảo tàng xác định là loài cá voi vây (Balaenoptera physalus) nhưng cũng có nghiên cứu của các chuyên gia trong và ngoài nước cho rằng đây là loài cá voi xám (Eschrichtius robustus).
Con cá khi được phát hiện có trọng lượng khoảng 50 tấn, dài trên 20m, đường kính gần 3m. Ngày 19 tháng 12 năm 1994, bộ xương cá được đưa về bảo quản và lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh.
Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian ngắn đưa ra trưng bày, xương cá bị chuyển sang màu hơi đen, có hiện tượng bị vi khuẩn, nấm mốc xâm nhập. Đây là lần đầu tiên Bảo tàng Quảng Ninh xử lý, bảo quản loại mẫu vật là xương động vật, lại là loài cá có bộ xương rất to và dài. Trong khi đó không có tài liệu hay nghiên cứu khoa học nói về công tác xử lý cũng như bảo quản xương cá voi vừa bị chết. Chính vì vậy Bảo tàng Quảng Ninh đã gặp nhiều khó khăn trong quá trình xử lý và bảo quản mẫu vật xuơng cá voi. Bảo tàng phải ngừng trưng bày, tiến hành tháo dỡ và tiếp tục bảo quản bằng hóa chất trong những năm 1998 và 2000. Từ năm 1996 đến nay, bộ xương cá voi tiếp tục được xử lý, bảo quản nhiều lần, với mức độ kỹ thuật ngày càng được nâng cao.
Không gian trưng bày về biển cả và tự nhiên của Hạ Long được trình chiếu bằng hệ thống màn hình LED lớn với những thước phim về bí mật của đại dương, tạo hóa, cộng hưởng với hệ thống máy chiếu 3D mang đến trải nghiệm như đang ở giữa lòng đại dương.
Tầng 2
Khu trưng bày lòng thuyền ở tầng 2 với các cột mốc biên giới Việt - Trung và [[Trận Bạch Đằng (1288)|cọc Bạch Đằng]] Tầng 2 là hệ thống trưng bày lịch sử Quảng Ninh trải dài từ thời kỳ tiền sử đến hết kháng chiến chống Mỹ. Các không gian gồm có:
Không gian trưng bày lịch sử Quảng Ninh trong thời kỳ chiến tranh phá hoại của Mỹ được thiết kế như khoang máy bay để gợi nhớ những trận chiến bắn rơi máy bay Mỹ. Trong hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ (lần thứ nhất từ 1964-1968 và lần thứ hai năm 1972), Quảng Ninh đã trải qua 4 năm, 1 tháng, 7 ngày (tròn 1500 ngày) trực tiếp đối mặt với các cuộc oanh kích của máy bay Mỹ. Quân dân Quảng Ninh đã bắn rơi 200 máy bay Mỹ, tiêu diệt và bắt sống 24 phi công Mỹ.
Bảo tàng Quảng Ninh tuy có thuận lợi là được đầu tư mới, chế độ bảo quản chung tốt nhưng để đáp ứng tiêu chuẩn bảo quản đặc biệt cho Bảo vật quốc gia thì cũng chưa đủ. 8 chiếc tủ trưng bày bảo vật quốc gia hiện chỉ có 1 chiếc duy nhất là đủ điều kiện bảo quản, xét theo tiêu chí trước tiên là sự an toàn cho hiện vật.
Các bảo vật quốc gia tại Bảo tàng Quảng Ninh gồm:
Bình gốm Đầu Rằm
Bình gốm Đầu Rằm (trước đây gọi là Bình gốm Hoàng Tân) được đoàn cán bộ Viện Khảo cổ học (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) phát hiện năm 1998 tại di tích khảo cổ học Đầu Rằm thuộc xã Hoàng Tân, Quảng Yên.
Hộp vàng Ngọa Vân - Yên Tử (còn được gọi là Hộp vàng hình hoa sen) được chế tác hoàn toàn bằng vàng ta, có trọng lượng tương đương khoảng 15,04 chỉ vàng, có dáng hình cầu, thân tạo múi dáng 11 cánh sen mềm mại, giống như bông sen đang độ khai mãn. Hộp còn nguyên cả nắp.
Hộp được chế tác bằng kỹ thuật gò trên khuôn và tạo hoa văn bằng kỹ thuật khắc, gò bằng tay - loại kỹ thuật luôn cho ra những sản phẩm độc bản. Các họa tiết hoa văn, nhất là nền gấm văn mây làm nền họa tiết hoa chanh là họa tiết chính, cho thấy trình độ và kỹ thuật hết sức điêu luyện của nghệ nhân. Các đường nét và họa tiết hoa văn nhỏ, với nét khắc sắc nét, khỏe khoắn trên thành hộp rất mảnh cho thấy, một nghệ nhân bình thường không thể tạo nên sản phẩm đặc biệt sắc sảo như vậy, mà hẳn phải là một nghệ nhân cao cấp trong các xưởng thợ do triều đình thành lập.
Trống đồng Quảng Chính
Năm 1981, ông Đinh Khắc Lân, xã viên Hợp tác xã Quảng Lễ, xã Quảng Chính, huyện Quảng Hà (nay là Hải Hà) trong khi đào đất ở mỏm đồi sau nhà để sang cát cho mẹ, đào sâu xuống hơn 1m đã phát hiện một chiếc trống đồng đặt úp nên đã đưa về lưu giữ trong nhà. Phải đến đầu năm 1983, tình cờ, các cán bộ xã, huyện nắm được thông tin nên đã đến vận động gia đình ông Lân giao trống đồng cho chính quyền. Huyện đã tổ chức trưng bày tại một số hội nghị để cán bộ, nhân dân chiêm ngưỡng trước khi chuyển về Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh trưng bày.
Trống đồng Quảng Chính (được đặt tên theo địa danh đã phát hiện ra trống) được Viện Khảo cổ học Việt Nam xếp thuộc trống Heger I - hay còn gọi trống đồng Đông Sơn có niên đại 2500 - 2000 năm cách ngày nay - là loại trống đẹp nhất trong 4 loại trống đồng.
Trống có dáng thấp, rìa mặt chưa chờm ra khỏi tang, tang nở, lưng hình chóp cụt, chân choãi. Đường kính mặt 39,5cm, chiều cao 30cm, đường kính chân 54cm, nặng 12,7kg. Trống có 2 đôi quai kép trang trí hoa văn thừng. Giữa mặt trống được trang trí hình ngôi sao nổi có 16 cánh nhọn. Quanh ngôi sao còn có các vành hoa văn 4 con chim dang cánh bay theo chiều kim đồng hồ, cánh chim xòe rộng, đuôi hình tam giác, mỏ dài. Làm nền cho vành hoa văn chim bay là các hoa văn hình học như hoa văn răng cưa.Căn cứ vào hình dáng, chất liệu, kỹ thuật đúc, họa tiết hoa văn trang trí và kết quả phân tích giám định thì hiện vật có niên đại thời Trần (thế kỷ XIII-XIV).
Thống có dáng hình trụ, thành cong, gờ miệng phẳng, loe ngang, thân phình kiểu tang trống, đáy bằng, trên thân đúc nổi hai đôi quai đối xứng nằm giữa hai đường gờ nổi. Sát chân quai là họa tiết hoa mai đúc nổi nhiều cánh, đây là họa tiết hoa văn đúc nổi duy nhất trang trí trên thống. Tại phần tiếp xúc giữa thân và hai đôi quai thống được đúc nổi bốn bông hoa mai có đường kính 2,6 - 2,9cm. Mỗi bông hoa có 6 cánh bám lấy phần chân quai vừa có giá trị trang trí tăng thêm tính thẩm mỹ, mặt khác có thể là phần gia cố thêm độ vững chắc của quai khi thống được sử dụng vào mục đích chứa, đựng hoặc khiêng thống diễu hành trong các nghi lễ.
Quan sát tổng thể, mâm bồng gốm men vẽ nhiều màu giống như một đóa sen với phần mâm phía trên chính là bông sen, cổ và thân là cuống của bông sen. Ở góc nhìn thẳng từ trên xuống, nó tựa một đoá sen đang độ khai mãn mà đài sen chính là lòng đĩa với họa tiết cá hoá rồng được bao quanh bởi 9 linh thú, thành đĩa uốn cong với nhiều lớp cánh sen ôm lấy đài sen.
Đặc trưng tiêu biểu nhất giúp nhận diện giá trị và chức năng của thống gốm hoa nâu An Sinh là hoa văn trang trí. Từ trên xuống dưới thống phân chia thành 6 băng hoa văn trang trí khác nhau, có hoa văn chính, có hoa văn phụ, hàm chứa một ý niệm văn hóa đặc sắc thời Trần:
Băng hoa văn 1: trên cùng, khắc 15 hoa dây lá dài nằm ngang
Băng hoa văn 2: Khắc các vân mây có đuôi dài nằm ngang, bay theo hướng ngược chiều kim đồng hồ
Băng hoa văn 3: Dùng kỹ thuật khắc dây hoa hình sin, khắc nối từ các đường giới hạn nằm ngang thành 8 khoảng riêng biệt. Trong mỗi khoảng khắc một con rồng đang bay theo chiều kim đồng hồ, vừa bay vừa phun châu nhả ngọc.
Băng hoa văn 4: Dùng kỹ thuật khắc dây hoa hình sin, mỗi nhịp uốn cong lại tạo thành một bông hoa riêng biệt. Tổng cộng có 12 bông hoa.
Băng hoa văn 5: Khắc 12 con chim trong tư thế vận động ngược chiều kim đồng hồ, tô hoa nâu
Băng hoa văn 6: Khắc 39 hình hoa bốn cánh thể hiện theo các đường chéo của hình vuông. Trong nghệ thuật điêu khắc Việt Nam, các nhà nghiên cứu gọi là hoa chanh, còn ở Trung Quốc gọi là hoa văn đồng tiền (連錢紋)
Trong số các hoa văn này, hình 8 con rồng cho thấy thống gốm hoa nâu An Sinh thời Trần ở Bảo tàng Quảng Ninh là đồ dùng của tầng lớp quyền quý tộc Trần, hoặc là đồ lễ khí (tế khí) trong các hoạt động nghi lễ của đời sống cung đình hoặc đời sống tôn giáo.
Thống gốm hoa nâu An Sinh thời Trần là biểu tượng cho sự phát triển đỉnh cao của nghệ thuật gốm sứ thời Trần, phản ánh một phần giá trị tư tưởng, trình độ thẩm mỹ của thời đại; đồng thời còn cho thấy được những nét văn hóa trong đời sống sinh hoạt. Đặc biệt, dựa vào bối cảnh khảo cổ phát hiện thống, trong khoảng sân lát gạch gần kiến trúc trung tâm ở hành cung của An Sinh Vương Trần Liễu, thống này có thể được dùng trong đời sống hàng ngày hoặc nghi thức cung đình của gia đình Trần Liễu.