✨Bách nhật duy tân

Bách nhật duy tân

Bách nhật duy tân (chữ Hán: 百日維新), còn gọi là Mậu Tuất biến pháp (戊戌变法), Mậu Tuất duy tân (戊戌維新) hoặc Duy Tân biến pháp (維新變法), đều là tên dùng để chỉ cuộc biến pháp do phái Duy Tân đề xướng, được Quang Tự Đế cho thi hành kể từ ngày 11 tháng 6 năm 1898 ở Trung Quốc.

Thế nhưng, công cuộc này chỉ tồn tại trăm ngày thì bị Từ Hi Thái hậu ra lệnh bãi bỏ (ngày 21 tháng 9 cùng năm), và những người chủ trì đều bị nghiêm trị.

Từ Tự cường đến Duy tân

Trước sự tăng cường xâu xé của các nước đế quốc, cộng thêm sự yếu hèn của tầng lớp thống trị, trong xã hội Trung Quốc bắt đầu xuất hiện trào lưu tư tưởng mới, đòi cải cách chế độ, canh tân để cho đất nước sớm thoát khỏi ách nô lệ.

Khởi đầu là cuộc vận động Tự cường (1862 - 1882) của một số người, trong đó có các đại thần triều Thanh là Lý Hồng Chương, Tăng Quốc Phiên, Phước Thành, Lê Thứ Xương, Tả Tôn Đường, Quế Lương,...Và họ đã làm được một số việc như: Tăng Quốc Phiên ở Thượng Hải, lập xưởng chế súng đạn, lập trường dạy tiếng nước ngoài, phái học sinh sang học ở Âu Mỹ. Tả Tông Đường ở Phúc Châu, lập xưởng đóng tàu và trường dạy hải quân. Lý Hồng Chương ở Thiên Tân, lập Thủy sư học đường để huấn luyện binh sĩ, đồng thời phái học sinh ra nước ngoài học về hải quân và lục quân...

Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, thì phong trào này tiến chậm, chủ yếu là nhầm vào việc quốc phòng thôi, chưa phải là một cuộc cải cách lớn. Vậy mà, phe thủ cựu đã nổi lên chống đối, cho rằng theo phương Tây là làm cho Trung Quốc hóa ra di địch...Trong khoảng thời gian đó có một người tên là Wong Tao học giỏi chữ Hán, ngoài hai chục tuổi, trong khoảng từ 1840 đến 1860 giúp việc cho nhà in của một hội truyền giáo Anh ở Thượng Hải. Bị nghi ngờ là tiếp xúc với Thái Bình Thiên quốc, ông phải trốn qua Hương Cảng, giúp James Legge dịch Tứ Thư và Ngũ Kinh rồi qua ở Scotland hai năm. Khi trở về Hương Cảng, Wong Tao xuất bản một nhật báo riêng, sau hợp tác với một tờ báo của người Anh ở Thượng Hải nữa (1872). Ông cảnh cáo nhà cầm quyền rằng công cuộc tự cường không có kết quả được vì chỉ trị ngọn chứ không trị gốc. Phải thay đổi cả chế độ mới được. Nhưng thời đó cơ hồ không ai hiểu ông. Phái thủ cựu thì tự cho mình là thanh cao, không bao giờ bàn tới học thuật phương Tây; còn phần đông nhân dân đều phải lo cày cấy để kiếm miếng ăn, không hề nghĩ đến việc nước. Mãi đến cuối thế kỷ 19, nhóm Khang Hữu Vi - Lương Khải Siêu nhờ đọc nhiều sách Âu Tây mới nhận ra là Wong Tao có lý .

Tháng 7 năm 1894, nhân việc tàu chiến Trung Quốc bị tàu chiến của một nước nhỏ là Nhật Bản đánh thua, Khang Hữu Vi cùng học trò là Lương Khải Siêu (gọi tắt là Khang - Lương) dâng thư lên Hoàng đế Quang Tự xin cải cách duy tân, nhưng bị Viện đô sát ở Thanh đình từ chối nên thư không đến được tay Hoàng đế.

Tháng 6 năm 1896, Khang - Lương lại dâng thư lần nữa, Lần này nhờ có thầy dạy Hoàng đế là Trạng nguyên Ông Đồng Hòa giúp đỡ nên thành công. Sau đó, hai thầy trò được mời vào cung gặp Hoàng đế để trình bày cặn kẽ chủ trương và cách thức tiến hành.

Chủ trương của phái Duy tân

Sơ lược một vài chủ trương quan trọng: *Kinh tế: -Khuyến khích mở mang công - nông - thương nghiệp, lập ra cục thương vụ, lập hội buôn, hội nông nghiệp (chú trọng việc khẩn hoang).

-Mua máy móc, du nhập sách báo và kỹ thuật của phương Tây, khuyến khích phát minh khoa học kỹ thuật.

-Cho thương nhân tự do lập công xưởng (chú trọng lập xưởng chế tạo súng đạn).

-Cho xây dựng đường sắt, tiến hành khai mỏ, mở ngân hàng,...

*Chính trị: Đề ra nguyên tắc "Hán Mãn bất phân, quân dân cộng trị", để:

-Cho phép mọi người được góp ý kiến với triều đình về các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội,...

  • Tổ chức lại bộ máy cai trị, bỏ nha thự ít việc, cách chức các quan lại bất tài, tham nhũng.

*Quân sự: -Xây dựng và luyện tập quân đội theo kiểu phương Tây, đồng thời kiểm soát chặt chẽ các lực lượng vũ trang.

*Văn hóa giáo dục: -Lập trường học theo kiểu phương Tây, cử người đi học ở nước ngoài.

-Cải cách chế độ thi cử, bỏ lối văn bát cổ trong các khoa thi mà lấy môn luận về thời vụ thay vào.

-Cho mở nhà in để in sách báo,...

Bị phái Hậu đảng chống đối

Sau một thời gian dài chuẩn bị, ngày 11 tháng 6 năm 1898 công cuộc biến pháp bắt đầu bằng hàng loạt các sắc lệnh của Hoàng đế Quang Tự, làm cho cả trong triều lẫn ngoài tỉnh xôn xao. Đúng là "toàn biến" và "tốc biến" như khẩu hiệu mà phong trào Duy tân đã đề ra.

Thế nhưng chỉ mấy ngày sau thì vấp phải sự chống đối quyết liệt của phái Hậu đảng (người đứng đầu là Thái hậu Từ Hi) vì thủ cựu và vì bị mất lộc vị. Do vậy, Khang Hữu Vi khuyên Quang Tự đừng vội bỏ hết các nha môn và sa thải người của phái này, cốt làm dịu lại tình hình nhưng không thành công.

Cuộc phản công đầu tiên của phái Hậu đảng là tìm cách đuổi đại thần Ông Đồng Hòa về quê. Mất mát này đối với phái Duy tân là không nhỏ, bởi đây là nhân vật chủ chốt của phái Đế đảng (đảng ủng hộ Hoàng đế) và là người tích cực trong công cuộc biến pháp.

Đàm Tự Đồng, một thành viên nồng cốt của phái Duy tân, thấy Từ Hi và đồ đảng của bà cứ tìm cách cản trở công cuộc biến pháp, bèn khuyên Quang Tự mau chóng đoạt lại quyền bính. Hoàng đế nghe lời, triệu Viên Thế Khải (lúc bấy giờ đang thống lĩnh 7.000 quân) về Bắc Kinh bàn việc, rồi định đến ngày lễ duyệt binh ở Thiên Tân sẽ khởi sự.

Biến pháp biến thành chính biến

Theo Nguyễn Hiến Lê, thì: :''"Phật bà" (Từ Hi) ở Di Hòa Viên không ưa trò biến pháp đó, bèn bổ nhiệm một người về phe bà là Vinh Lộc, tổng đốc Trực Lệ làm thống lãnh quân đội ở vùng kinh kỳ để củng cố thế lực cho bà. Đến khi nghe tin Quang Tự triệu Viên Thế Khải về Bắc Kinh bàn việc, có ý dùng quân của Viên để bao vây Di Hòa Viên (chính Viên phản vua, vì thấy Từ Hi còn mạnh), Từ Hi vội vàng trở về Bắc Kinh, họp Quang Tự và các đại thần lại, bắt Quang Tự quỳ một bên, các đại thần quỳ một bên, trừng mắt lớn tiếng mắng Quang Tự và các các quan một hồi...Sau cùng bà tuyên bố rằng Quang Tự đau, bà phải thính chính trở lại, và đem giam Hoàng đế ở Danh Đài trong hồ Tây Uyển. Rồi chỉ trong một hai tuần, bà cho toàn hủy, tốc hủy hết các canh tân của Quang Tự, đồng thời cho truy nã các người tổ chức cuộc biến pháp. Sử gọi vụ việc này là "Bách nhật duy tân", tức Duy tân trăm ngày... :''Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu lần lượt trốn sang Nhật Bản. Đàm Tự Đồng không chịu trốn, muốn lấy máu mình nuôi cách mạng, nên bị giết cùng với năm người nữa, đó là: Khang Quảng Nhân (em Khang Hữu Vi), Lưu Quang Đệ, Lâm Húc, Dương Nhuệ, Dương Thâm Tú; được người đời gọi là Lục quân tử. Vậy là cuộc biến pháp biến thành cuộc chính biến, mà sau này sử gọi là chính biến Mậu Tuất (1898).

Trong quyển Hồi ký của mình, cựu hoàng Phổ Nghi cũng đã kể lại cuộc chính biến như sau: :''...Ông Đồng Hòa rời khỏi Bắc Kinh không bao lâu, thì Vinh Lộc đến nhậm chức Đại học sĩ Văn Uyên Các, kiêm Tổng đốc Trực Lệ và đại thần Bắc Dương, thống lĩnh ba quân...Vinh Lộc định sẽ đưa Từ Hi và Quang Tự đến Thiên Tân để duyệt đội quân mới, rồi phế truất Quang Tự. Hay được, Hoàng đế Quang Tự liền bí mật báo cho phái Duy tân biết để tìm cách ứng cứu...Các nhân sĩ phái này hy vọng dựa vào lực lượng quân sự mới của Viên Thế Khải, nhưng trái lại ông này đã đẩy Quang Tự đến đường cùng.

:''Trước đây, Viên đã từng tham gia đoàn thể Cường học hội của các nhân sĩ Duy Tân. Lúc Ông Đồng Hòa bị cách chức trên đường về quê qua Thiên Tân, Viên còn thể hiện sự đồng tình với ông, và trình bày lòng trung thành vô hạn đối với Hoàng đế. Vì vậy, phái Duy Tân có nhiều hoang tưởng về Viên Thế Khải, đã kiến nghị với Quang Tự, cho Viên vào cung, đặc cách làm Binh bộ thị lang...Sau đó, Đàm Tự Đồng thuộc phái Duy Tân đã đến nơi ở của Viên, đưa ra kế hoạch hành động là trong lúc duyệt binh, sẽ cho lính bắt giết Vinh Lộc, giam lỏng Từ Hi và ủng hộ Quang Tự. Viên Thế Khải nghe xong, tỏ ra khảng khái, một mực xin nhận trọng trách này…Nhưng khi tiễn Đàm Tự Đồng ra về, Viên lập tức đến Thiên Tân, báo cáo toàn bộ sự việc với Vinh Lộc. Vinh Lộc vội vàng đi xe lửa đến Bắc Kinh, rồi đến thẳng Di Hòa Viên, báo lại cho Từ Hi. Vì thế mưu sự bị vỡ lở, Thái hậu Từ Hi nhanh chóng ra lệnh bắt giam Hoàng đế, tịch thu tất cả các ấn tín, đồng thời cho bãi bỏ tất cả chiếu lệnh duy tân vừa ban hành. Sau, Từ Hi định diệt Quang Tự, nhưng không ngờ âm mưu này bị phát hiện. Sau nữa, bà còn định đưa Phổ Tuyền (con Đoan vương Tái Y) lên làm vua theo chủ ý của Vinh Lộc, nhưng vì bị công sứ các nước phản đối nên thôi...

Nhận xét

Nhà sử học Will Durant viết: :...Nhật Bản thình lình tấn công Trung Quốc, thắng, sau đó đất đại, chủ quyền lần lượt lọt vào tay các cường quốc châu Âu, nên tại kinh đô nổi lên một phong trào dân chúng mạnh mẽ muốn noi gương Nhật Bản học hỏi Âu Tây, tổ chức một đạo quân mạnh,...Tóm lại là rán đạt được sức mạnh về kỹ nghệ, mà nhờ đó Nhật Bản và châu Âu đã phú cường…Tuy Từ Hi thái hậu và các cận thần của bà cực lực chống đối phong trào ấy (duy tân), nhưng nó vẫn ngầm lôi cuốn được ông vua trẻ là Quang Tự. Rồi đột nhiên, nhà vua không hỏi ý kiến "Phật bà" (Từ Hi), ban hành một loạt lệnh sắc táo bạo. Nếu những sắc lệnh này thực hành được thì Trung Hoa đã yên ổn nhảy một bước lớn lao theo con đường Âu hóa, nhà Thanh không bị sụp đổ, mà Trung Hoa cũng không bị khốn cùng.

Trong sách Trung Quốc Lịch sử thế giới cận đại, có đoạn: :''Quang Tự tuy làm vua nhưng chỉ hư vị, thực quyền đều nằm trong tay Từ Hi thái hậu. Năm 1889, Quang Tự 18 tuổi, Từ Hi muốn tránh dư luận về việc chiếm quyền, nên ban quy định là các đại thần "tâu vua trước, báo cho thái hậu sau". Nhưng thực tế vẫn như cũ, Quang Tự chỉ là bù nhìn. :Vua Quang Tự, trước nguy cơ của dân tộc đã tán thành cải cách, đồng thời cũng muốn thông qua đó để giành lại quyền lực về cho mình. Nhưng họ không có thực quyền về chính trị, không nắm quân đội, lại không dựa vào nhân dân, nên lực lượng rất yếu ớt. Ngoài ra, trong phái Duy tân còn có một số quan lại cơ hội tham gia. Nên khi phái Duy tân bị tấn công, họ liền trở mặt tố giác. Điều này càng làm cho công đấu tranh thêm khó khăn, phức tạp...

Mặc dù cuộc cải cách chỉ diễn ra có trăm ngày, nhưng đã làm thay đổi ít nhiều nhận thức của sĩ phu và nhân dân Trung Quốc. Cho nên, theo Nguyễn Hiến Lê, thì sau hòa ước nhục nhã Tân Sửu (1901), để mua chuộc lại lòng người, Từ Hi cho thực hành lại hết những sắc lịnh biến pháp mà Hoàng đế Quang Tự đã ban ra, và lập thêm nhiều cơ quan mới để lo các việc học, huấn luyện tân binh, chấn hưng nông-công- thương,...

Ngoài ra, tư tưởng cách tân của cuộc vận động này còn ảnh hưởng sâu rộng đến tầng lớp sĩ phu tiến bộ của một số nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Các nhà chí sĩ Việt Nam ở đầu thế kỷ 20, vì chịu ảnh hưởng của cuộc biến pháp Mậu Tuất cùng sách vở do nhóm khởi xướng biên soạn (nổi bật nhất là Khang - Lương), mà lập ra Duy Tân hội (1904) và phong trào Duy Tân (1906). Việc phong trào này thất bại cũng góp phần khiến triều đại nhà Thanh bước thêm 1 bước nữa đến sự diệt vong hoàn toàn vào đầu năm 1912.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bách nhật duy tân** (chữ Hán: 百日維新), còn gọi là **Mậu Tuất biến pháp** (戊戌变法), **Mậu Tuất duy tân** (戊戌維新) hoặc **Duy Tân biến pháp** (維新變法), đều là tên dùng để chỉ cuộc biến pháp
**Cách mạng Tân Hợi** () còn được gọi là **Cách mạng Trung Quốc** hay **Cách mạng năm 1911** là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Trung Quốc do những người trí
**Tân Cương** (; ; bính âm bưu chính: **Sinkiang**), tên chính thức là **Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương**, là một khu vực tự trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm
**Bách Tế** (, (18 TCN – 660 CN) là một vương quốc nằm tại tây nam bán đảo Triều Tiên. Đây là một trong Tam Quốc Triều Tiên, cùng với Cao Câu Ly (Goguryeo) và
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
**Thánh Vương**, **Minh Vương** hay **Thánh Minh Vương** (mất 554, trị vì 523–554) là vị quốc vương thứ 26 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là vương tử của Bách Tế
**Thái Ngạc** (Phồn thể: 蔡鍔; Giản thể: 蔡锷; Bính âm: Cài È; Wade–Giles: Ts'ai O; 18 tháng 12 năm 1882 – 8 tháng 11 năm 1916) là môt lãnh tụ Cách mạng - quân phiệt
**Tân nhạc**, **nhạc tân thời**, **nhạc cải cách** hay **nhạc nhẹ** là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928. Tân nhạc là một phần của **âm
**Tân La** (; ; Tiếng Triều Tiên cổ: 徐羅伐 Syerapel, Sïrapïr; Romaja: _Seorabeol_; IPA: ; 57 TCN – 935 CN) là một trong Tam Quốc Triều Tiên, và là một trong số các Triều đại
**Lịch sử Nhật Bản** bao gồm lịch sử của quần đảo Nhật Bản và cư dân Nhật, trải dài lịch sử từ thời kỳ cổ đại tới hiện đại của quốc gia Nhật Bản. Các
**Biểu tình bài Nhật tại Trung Quốc năm 2012** là một loạt các cuộc biểu tình bài Nhật Bản được tổ chức ở các thành phố lớn tại Trung Quốc và Đài Loan trong khoảng
**Tỳ linh Nhật Bản** ( _Nihon kamoshika_, , danh pháp hai phần: _Capricornis crispus_) là một loài động vật có hình dạng nửa giống dê nửa giống linh dương, thuộc lớp thú guốc chẵn. Địa
Nhật Bản là quốc gia có số lượng Phật tử chiếm 34,9% dân số, có khoảng 377,000 tăng sĩ (2014). Có ngôi chùa gỗ cổ nhất thế giới Hōryūji (Pháp Long Tự). nhỏ|Chùa [[Yakushiji ở
**Lịch sử Hải quân Nhật Bản** bắt đầu với sự tương tác với các quốc gia trên lục địa châu Á thiên niên kỷ 1, đạt đỉnh cao hoạt động hiện đại vào thế kỷ
**Chiến tranh Trung – Nhật** (1937–1945) là một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Hoa Dân Quốc và Đế quốc Nhật Bản. Hai thế lực đã chiến đấu với nhau ở vùng biên giới
**Tân Ước**, còn gọi là **Tân Ước Hi văn** hoặc **Kinh Thánh Hi văn** (Tiếng Anh: _New Testament_) là phần cuối của Kinh Thánh Kitô giáo, được viết bằng tiếng Hy Lạp bởi nhiều tác
**Đảng Việt Tân** hoặc **Việt Nam Canh tân Cách mạng Đảng** (tiếng Anh: _Vietnam Reform Revolutionary Party_, **VRRP**) là một tổ chức chính trị được thành lập bởi một nhóm người Mỹ gốc Việt tại
**Trung Hoa Dân Quốc** () là một chính thể tiếp nối sau triều đình nhà Thanh năm 1912, chấm dứt hơn 2000 năm phong kiến Trung Quốc. Đây là chính thể cộng hòa hiện đại
****, sự kiện diễn ra năm 1274 và năm 1281, bao gồm những nỗ lực quân sự quy mô lớn do Hốt Tất Liệt của Đế quốc Mông Cổ tiến hành nhằm chinh phục quần
**Khác Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恪順皇貴妃; 27 tháng 2, năm 1876 - 15 tháng 8, năm 1900), được biết đến với tên gọi **Trân phi** (珍妃), là một phi tần rất được sủng
nhỏ|phải|Một [[bữa ăn sáng truyền thống tại một Ryokan ở Kyoto. Các món ăn bao gồm thịt cá thu nướng, _dashimaki_ (trứng tráng Nhật Bản, ở đây theo phong cách Kansai), cơm, đậu phụ trong
là một trào lưu tư tưởng - chính trị ở Nhật Bản, được hình thành trong thời kỳ Minh Trị Duy Tân (1868 – 1910) - cuộc cải cách đưa nước Nhật trở thành một
**Viên Thế Khải** (; 1859 - 1916), tự là **Uy Đình** (慰亭), hiệu là **Dung Am** (容庵); là một đại thần cuối thời nhà Thanh và là Đại Tổng thống thứ hai của Trung Hoa
**Phan Châu Trinh** hay **Phan Chu Trinh** (chữ Hán: 潘周楨; 1872 – 1926), hiệu là **Tây Hồ** (西湖), biệt hiệu **Hy Mã** (希瑪), tự là **Tử Cán** (子幹). Ông là nhà thơ, nhà văn, và
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
**Văn Vũ Vương** (trị vì 661–681), tên thật là **Kim Pháp Mẫn**, là quốc vương thứ 30 của Tân La. Ông thường được coi là người trị vì đầu tiên của thời kỳ Tân La
**Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn** chỉ loạt trận chiến của nhà Đông Tấn ở phía nam phát động trong khoảng thời gian từ năm 317 đến 419 nhằm thu phục lại miền
thumb|[[Hồ Symphony (Singapore)|Hồ Symphony trong Vườn bách thảo Singapore.]] thumb|Âm nhạc được chơi tại [[vọng lâu, nó được gọi là _Bandstand_ của Vườn bách thảo trong những năm 1930]] thumb|Bản sao gốc của loài _[[Lepidodendrons_
**Uy Đức Vương** (525–598, trị vì 554–598) là quốc vương thứ 27 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là con trai cả của Thánh Vương, và lên ngôi sau cái chết
**Bạch Bách Hà** (tiếng Trung: 白百何; sinh ngày 01 tháng 03 năm 1984 tại Thanh Đảo) tên thật **Bạch Tuyết**, là một nữ diễn viên Trung Quốc. ## Tiểu sử Năm 1990, Bạch Bách Hà
**Bách Gia Chư Tử** (諸子百家; Bính âm: zhū zǐ bǎi jiā) là những triết lý và tư tưởng ở Trung Hoa cổ đại nở rộ vào giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến năm
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Trường Đại học Bách khoa** (, **HCMUT**) là trường đại học đầu ngành về lĩnh vực kỹ thuật ở miền Nam Việt Nam, thành viên của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
**Lương Khải Siêu** (1873 - 1929), tự là **Trác Như**, hiệu là **Nhiệm Công**, bút hiệu là **Ẩm Băng Tử**, **Ẩm Băng Thất chủ nhân**. Ông là nhà tư tưởng và là nhà hoạt động
phải|Không ảnh định vị hai tòa nhà Norris và West Ambler Johnston. **Thảm sát Đại học Bách khoa Virginia**, còn gọi là **Thảm sát Virginia Tech**, là một vụ bắn giết trong trường học gồm
**_Bát bách_** (, ) là một bộ phim chính kịch chiến tranh lịch sử Trung Quốc năm 2020 do Quản Hổ đạo diễn và đồng biên kịch, Hoa Nghị huynh đệ sản xuất. Tác phẩm
**Thuật ngữ văn học Nhật Bản** được trình bày theo thứ tự abc dưới đây là một số thuật ngữ, khái niệm, danh từ riêng thường gặp trong văn học Nhật Bản, bao gồm trong
Tam Quốc sử ký là sách lịch sử thể ký truyện viết về ba vương triều Tân La, Cao Cú Lệ và Bách Tế trên bán đảo Triều Tiên. Không chỉ có những áng văn
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
**Ông Đồng Hòa** (chữ Hán: 翁同龢1830 - 1904; tục gọi là **Thầy Hòa**; tên tự là **Chú Bình**, hiệu là **Tùng Thiện**, vãn hiệu là **Bình Am Cư sĩ**, quê quán Thường Thục, Giang Tô,
**Viện Đại học Bách khoa Virginia** (tên đầy đủ tiếng Anh: _Virginia Polytechnic Institute and State University_, "Viện Bách khoa và Viện Đại học Tiểu bang Virginia", thường đọc ngắn gọn là **Virginia Tech**) là
**Nghiêm Phục** (8 tháng 1 năm 1854 – 27 tháng 10 năm 1921) tự **Kỷ Đạo** (), hiệu **Dũ Dã lão nhân** (), là một sĩ quan quân đội, nhà tư tưởng, nhà giáo dục
**Người Duy Ngô Nhĩ** hay **Người Uyghur** (tiếng Uyghur: ئۇيغۇرلار (chữ Ả Rập), уйғурлар (chữ Kirin), tiếng Trung ) là một sắc tộc người Turk sống chủ yếu ở khu tự trị Tân Cương, Trung
**Khang Hữu Vi** (; 1858–1927), nguyên danh là **Tổ Di** (祖詒), tự là **Quảng Hạ** (廣廈), hiệu là **Trường Tố** (長素), **Minh Di** (明夷), **Canh Sinh** (更生), **Tây Tiều Sơn Nhân** (西樵山人), **Du Tồn Tẩu**
nhỏ|phải|Các sĩ quan của trường Polytechnique hướng ra mặt trận bảo vệ Paris chống ngoại xâm năm 1814. Bức tượng được đặt tại khu vực vinh danh của trường để kỉ niệm sự kiện này
là một nhà lãnh đạo và nhà lý luận quân sự thời Bakumatsu. Ông là "Cha đẻ" của Lục quân Đế quốc Nhật Bản, khởi động một lực lượng quân sự hiện đại gần giống
**Thanh Đức Tông** (chữ Hán: 清德宗; 14 tháng 8 năm 1871 – 14 tháng 11 năm 1908), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế** (文殊皇帝) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Thanh
**Chiến tranh Nga–Nhật** hay **Nhật-Nga chiến tranh** (tiếng Nhật: 日露戦争 _Nichi-Ro Sensō_, âm Hán Việt: "Nhật Lộ chiến tranh"; tiếng Nga: Русско-японская война, "Russko-yaponskaya voina"; tiếng Trung: 日俄戰爭 _Rì'ézhànzhēng_, "Nhật Nga chiến tranh") là một
**Binh đoàn Sản xuất và Xây dựng Tân Cương** (), tên khác là **Công ty Tập đoàn Tân Kiến Trung Quốc** (中国新建集团公司), Các binh đoàn kiến thiết được chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung
**Ba nhà chia Tấn** (chữ Hán: 三家分晋 _Tam gia phân Tấn_) là kết quả cuối cùng của cuộc đấu tranh quyền lực trong nội bộ nước Tấn – bá chủ chư hầu thời Xuân Thu