✨An quốc quân
An quốc quân () là một liên minh quân phiệt do Trương Tác Lâm đứng đầu, và là nhánh quân đội của Chính phủ Bắc Dương, Trung Hoa Dân Quốc.
Lực lượng này được thành lập vào tháng 11 năm 1926 sau khi Quân phiệt Phụng hệ chiến thắng trong Chiến tranh Phản Phụng, được giao nhiệm vụ chống lại cuộc tiến công của Quốc dân Cách mệnh Quân của Tưởng Giới Thạch, người đã phát động cuộc Bắc phạt vào tháng 6 năm 1926. An quốc quân cũng bao gồm một số tướng lĩnh Quân phiệt Trực hệ, chẳng hạn như Tôn Truyền Phương.
Quân phiệt Phụng hệ do Trương Tác Lâm, một thủ lĩnh địa phương ở Mãn Châu đứng đầu. Cùng với giới tinh hoa địa phương và các nhân vật quân sự khác ở Mãn Châu, Trương đã thành lập một liên minh đôi bên cùng có lợi, tạo thành xương sống cho phe của ông. với kết quả là Trực hệ đẩy Phụng hệ về Mãn Châu.
Năm 1924, Đốc quân Giang Tô liên kết với Trực hệ, Tề Tiếp Nguyên, tuyên chiến với Đốc quân Chiết Giang, Lô Vĩnh Tường, thuộc phe Phụng hệ, làm dấy lên một cuộc xung đột mới giữa phe Phụng hệ và Trực hệ, được gọi là Chiến tranh Trực-Phụng lần thứ hai. Điểm then chốt của cuộc xung đột là vào ngày 30 tháng 10 năm 1924, khi Phùng Ngọc Tường trở cờ, ly khai khỏi phe Trực hệ tuyên bố thành lập Quốc dân quân độc lập và liên kết với Phụng hệ trong cuộc chính biến Bắc Kinh. Điều này dẫn đến một chiến thắng áp đảo của phe Phụng hệ, loại bỏ bè phái Trực hệ khỏi thủ đô và Tào Côn khỏi chức vụ tổng thống Trung Hoa Dân Quốc. Trương Tác Lâm sau đó lên nắm quyền kiểm soát chính phủ Bắc Dương. lập ra đạo quân Ngũ tỉnh liên quân (). Vào tháng 10 năm 1925, Tôn Truyền Phương bắt đầu tấn công Giang Tô, và Phùng Ngọc Tường bắt đầu cuộc xâm lược Sơn Đông, lúc này thuộc quyền kiểm soát của Trương Tông Xương thuộc phe Phụng hệ. Vào tháng 11 năm 1925, Quách Tông Linh chống lại Trương Tác Lâm, đứng về phía Phùng Ngọc Tường. Vào tháng 1 năm 1926, Trương phát động cuộc tấn công, ra lệnh cho quân đội ở các tỉnh Phụng Thiên và Sơn Đông tấn công Bắc Kinh và Thiên Tân. Tôn Truyền Phương và Trương Tông Xương được bổ nhiệm làm phó chỉ huy của lực lượng,và trụ sở được thành lập tại khu vực Phổ Khẩu - Nam Kinh. Theo nhà sử học Donald Jordan, cái tên "An quốc quân" bắt nguồn từ "tham gia chiến tranh để đạt được hòa bình", một quan niệm truyền thống trong lịch sử Trung Quốc rằng những vị lãnh tụ vương triều chiến đấu thống nhất đất nước. Vào thời điểm thành lập An quốc quân, Trương Tác Lâm đã thề sẽ cứu Trung Quốc khỏi "mối đe dọa đỏ", tấn công vào Mặt trận thống nhất của Quốc dân Đảng, những người cộng sản Trung Quốc, cũng như Liên Xô và Đệ Tam Quốc tế. An quốc quân vào thời điểm này bao gồm 500.000 người. Mặc dù quân đội của Trương Tông Xương hùng mạnh và tách biệt khỏi quân Phụng hệ, nhưng Trương Tông Xương vẫn coi mình là thuộc hạ của Trương Tác Lâm. Đồng minh thứ hai của Trương Tác Lâm là Tôn Truyền Phương, một tướng quân phiệt Trực hệ hoạt động ở miền trung Trung Quốc. Sau khi gia nhập An quốc quân, quân đội của ông đã phối hợp với các hoạt động di chuyển của Trương, và sau khi Tôn Truyền Phương bị đuổi khỏi Giang Tô và Chiết Giang vào đầu năm 1927, ông được hỗ trợ bởi phe Phụng hệ. Mặc dù Tôn hoàn toàn phụ thuộc về tài chính vào Phụng hệ, ông vẫn có thể tự đưa ra quyết định có lợi nhất cho mình. Trương Tác Lâm tự xưng là Tổng thống lĩnh vào ngày 18 khi các cuộc đàm phán giữa Phụng hệ và Quốc dân Đảng xấu đi, thành lập một chính quyền quân sự. Quốc dân quân cũng tham gia vào trận chiến ở Hà Nam. Lãnh đạo của Quốc dân quân, Phùng Ngọc Tường, đã gia nhập Quốc dân Đảng vào tháng 11 năm 1926, và đang chiến đấu với lực lượng An quốc quân ở Hà Nam vào tháng 12 với tư cách là chỉ huy trưởng Lộ quân Trung tâm cuộc Bắc phạt, lãnh đạo 100.000 lính ở phía tây Hà Nam. Quân phiệt Phụng hệ tuyên bố rằng Trương Tác Lâm sẽ được bầu làm chủ tịch chính phủ Bắc Dương sau khi các tỉnh phía bắc sông Dương Tử được bình định. Điều này đã khiến Trương phát động một cuộc tấn công mới ở Hà Nam vào mùa xuân năm 1927, cùng thời điểm một cuộc tấn công chống Tưởng Giới Thạch của Chính phủ Quốc dân Vũ Hán. Trong tháng 5, trong khi 100.000 quân của chính phủ Vũ Hán bị thương, thương vong của quân Phùng Ngọc Tường chỉ là 400. Khi Diêm Tích Sơn và Phùng Ngọc Tường chuyển sang phe chính quyền Nam Kinh của Tưởng Giới Thạch, An quốc quân buộc phải bỏ hai tỉnh Hà Nam và Giang Tô, cũng như bỏ chiến lược tổng quát chung của mình. Tuy nhiên, vào cuối tháng 8 năm 1927, Trương tấn công lực lượng Diêm Tích Sơn ở Thạch Gia Trang, buộc họ phải rút lui về Sơn Tây. Điều này phá vỡ sự cân bằng, và Diêm bắt đầu một cuộc tấn công dọc theo tuyến đường sắt Bắc Kinh-Tuy Viễn vào tháng 10, mở ra một mặt trận giao tranh mới giữa Quốc dân Đảng và An quốc quân.
Vào đầu năm 1928, An quốc quân lúc này đã suy yếu nghiêm trọng và đang bị đẩy lùi. Liên quân giữa Tưởng, Phùng, Diêm và Lý Tông Nhân đã bao vây An quốc quân ở phía nam, với binh lính ở Sơn Tây, Hà Nam và nam Sơn Đông. Lực lượng của Diêm đã tấn công phía tây của tuyến đường sắt Bắc Kinh - Thiên Tân vào đầu năm 1928. Vào tháng 4, mặt trận Sơn Đông sụp đổ khi Trương Tông Xương bị đánh bại hoàn toàn. Khi các lực lượng của Quốc dân Cách mệnh Quân đến được Bắc Kinh, Trương đã chỉ đạo 200.000 quân trấn giữ mặt trận phía nam. Phùng bị đẩy lùi từ Bảo Định đến Định Châu, khiến ông không thể tiến quân. Tuy nhiên, ông đã đánh bại An quốc quân ở mặt trận phía đông và ngay lập tức chặn các tuyến đường sắt để cắt đứt việc liên lạc của An quốc quân. Cuối cùng, vào ngày 3 tháng 6, Trương quyết định chuyển tổng hành dinh trở lại Mãn Châu. Chứng kiến tình hình không mấy khả quan của An quốc quân ở Bắc Kinh, Nhật Bản cảm thấy lo lắng về lợi ích Nhật Bản ở Mãn Châu nếu Quốc dân Đảng chiến thắng. Tin rằng Trương sẽ bất hợp tác, các sĩ quan Đạo quân Quan Đông đã đe dọa sẽ chặn không cho Trương Tác Lâm quay trở lại Phụng Thiên nếu thỏa thuận với Quốc dân Đảng. Khi ông đang quay trở lại Mãn Châu, đoàn tàu của ông đã bị cho nổ tung vào ngày 4 tháng 6 năm 1928 trong cái gọi là Sự kiện Hoàng Cô Truân. Vì vậy, Trương Học Lương đã ra lệnh xử tử Dương và Đốc quân Hắc Long Giang là Thường Âm Hòe, từ đó kết thúc sự kiểm soát của nhóm sĩ quan từng theo học tại Trường Sĩ quan Lục quân Lục quân Đế quốc Nhật Bản, cho phép ông toàn quyền kiểm soát Phụng hệ và An quốc quân.
Trương Học Lương quyết định cắt giảm lực lượng Phụng hệ và vốn cho Công xưởng Phụng Thiên để khắc phục tình hình tài chính. Ông đã giải tán hoàn toàn An quốc quân, chỉ có lực lượng của Vu Học Trung chuyển sang Phụng hệ, trong khi phần còn lại gộp vào lực lượng Quốc dân Cách mệnh Quân hoặc quân đội Sơn Tây.
Vào cuối cuộc Bắc phạt, chính phủ Quốc dân Đảng ở Nam Kinh bắt đầu được quốc tế công nhận là chính phủ hợp pháp của Trung Quốc. Tuy nhiên, điều này đã làm suy yếu sự hiện diện và vị thế của quân đội Trung Quốc ở Mãn Châu. Trương Học Lương, kế vị cha mình, đã đưa ra quyết định đàm phán với các nhà lãnh đạo ở Nam Kinh để được công nhận. Tuy nhiên, Nam Kinh đã quyết định rằng An quốc quân phải bị giải tán hoàn toàn, dẫn đến sự kiện đổi cờ Đông Bắc. Từ đó, các lãnh chúa địa phương bắt đầu thống trị Mãn Châu; người dân các tỉnh phía đông bắc phải chịu đựng tình trạng rối loạn xã hội ngày càng gia tăng, và chính quyền Trung Quốc trong khu vực sụp đổ, mở đường cho cuộc xâm lược của Nhật Bản năm 1931 sau Sự kiện Phụng Thiên. Sau khi Quách chết, Trương Tác Lâm đứng đầu phe từng học ở Trường Tham mưu Bắc Kinh. Quân Phụng hệ có khoảng 220.000 người vào năm 1928. Lực lượng của Tôn Truyền Phương có 200.000 người vào năm 1927, mặc dù hai sư đoàn trong số đó đã đào tẩu sang Quốc dân Cách mệnh Quân. Khi phòng thủ sông Dương Tử, Tôn Truyền Phương có 70.000 quân, chia thành 11 sư đoàn và 6 lữ đoàn hỗn hợp. Việc tiếp cận trang thiết bị rất hạn chế đến mức một số binh sĩ được trang bị giáo thay vì súng. Tại trận Long Đàm, gần Nam Kinh, quân của Tôn Truyền Phương tổn thất 30.000 người, cùng với 35.000 súng trường và 30 pháo dã chiến rơi vào tay Quốc dân Cách mệnh Quân. Sau trận chiến, lực lượng của Tôn chỉ còn lại 10.000 người.
Quân đội Trực Lệ – Sơn Đông (tuyển từ nam giới trưởng thành các tỉnh Trực Lệ và Sơn Đông) bao gồm 150.000 người và 165 khẩu pháo vào năm 1927. Ngoài ra còn có 4.000 lính đánh thuê Bạch vệ, và 2.000 trẻ em trai (tuổi trung bình khoảng 10) do một trong những con trai của Trương Tông Xương lãnh đạo. Những đứa trẻ này được cấp những khẩu súng trường ngắn đặc biệt. Quân đội Trực Lệ – Sơn Đông cũng được báo cáo rằng có 160 khẩu pháo dã chiến, dù trong đó 40 khẩu bị hỏng.
Tuyên truyền
thumb|right|Một tấm poster từ Bắc Dương họa báo, xuất bản ngày 27 tháng 8 năm 1927, công kích sự "tái thiết không hoàn chỉnh" của Quốc dân Đảng, viện dẫn đó là lý do tại sao họ "thất bại". Các bức tường của Quốc dân Đảng đang đổ nát vì sử dụng gạch của các "lãnh chúa", "các quan chức cũ" và "các chính trị gia cũ".
Trương Tác Lâm, vì thấy mình thiếu quyền lực chính trị, nên tự phong là Tổng thống lĩnh, chứ không phải là Tổng thống như Tôn Trung Sơn, kể từ khi thành lập chính phủ quân sự năm 1927. Do đó, ông thường xuất hiện trong quân phục hơn là trong trang phục dân sự. Các khẩu hiệu ủng hộ An quốc quân phổ biến bao gồm: "Cầu mong Trung Hoa Dân Quốc trường tồn ngàn năm", "Xóa bỏ bạo lực tại quê nhà" và "Chống ngoại xâm". An quốc quân tự cho mình giống như những người mang lại hòa bình và trật tự cho Trung Quốc, đối lập với lực lượng của Quốc dân Đảng, cũng như những người Xô viết và cộng sản ủng hộ họ.
Ngoài ra, tuyên truyền của An quốc quân mô tả con trai của Trương Tác Lâm, Trương Học Lương, "Ánh sáng phương Bắc", là một người con trẻ tuổi và yêu nước của Trung Quốc. Những bài tuyên truyền cố gắng dung hòa lý tưởng của Trương Tác Lâm và Trương Học Lương với những lý tưởng của Tôn Trung Sơn bằng cách nói rằng họ tán thành Chủ nghĩa tam dân. Trương Học Lương thường được mặc một bộ đồ kiểu Tây để thể hiện sự tinh tế của mình. Ông cũng được miêu tả là người kế vị Tôn Trung Sơn.
Về các tướng lĩnh An quốc quân, tuyên truyền miêu tả họ là những người đàn ông đáng kính và chân chính; bắt nguồn từ mối quan hệ với những nhân vật quan trọng, xuất thân đa dạng, kỹ năng và quyết tâm đánh đuổi ảnh hưởng của nước ngoài của họ.
Trích dẫn
Thể loại:Trung Quốc thập niên 1920 Thể loại:Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949) Thể loại:Lịch sử Trung Quốc Thể loại:Chủ nghĩa quân phiệt ở Trung Hoa Dân Quốc Thể loại:Nội chiến ở Trung Quốc