✨Ẩm thực Philippines

Ẩm thực Philippines

Ẩm thực Philippines Ẩm thực Philippines bao gồm các món ăn, phương pháp chế biến và phong tục ăn uống ở Philippines. Phong cách ẩm thực với các món ăn đặc trưng của nó đã được phát triển qua nhiều thế kỷ trong nhóm người Nam Đảo, sau đó được hòa trộn với các trường phái ẩm thực khác đến từ Tây Ban Nha/Bồ Đào Nha, Trung Quốc, Mỹ và các nước châu Á khác, có thay đổi cho phù hợp với khẩu vị và nguyên liệu địa phương. Ẩm thực xứ Phi Luật Tân được ví von là "Đông-Tây hội ngộ" (East meets West)

Có cả các món ăn đơn giản như một bữa ăn với cơm và cá khô muối, cũng như các món phức tạp, ví dụ như món paellacozido được làm dành cho các kỳ lễ. Các món ăn nổi tiếng gồm có: lechon (thịt lợn nướng nguyên con), longganisa (xúc xích Philippines, tapa (thịt bò muối), torta (trứng ốp lết), Adobong (gà hoặc lợn rim với tỏi, giấm, dầu ăn, và nước tương, nấu cho đến khi cạn nước), kaldereta (thịt sốt cà chua), mechado (bò rán mỡ lợn, nấu nước tương, sốt cà chua), puchero (bò nấu chuối sốt cà chua), afritada (gà hoặc lợn ninh nhỏ lửa nấu với rau, sốt cà chua), kare-kare (đuôi bò và rau sốt đậu phộng), pata giòn (giò heo xào), hamonado (thịt lợn ngọt sốt dứa), sinigang (thịt và hải sản nấu nước chua), pancit (mì) và lumpia (chả giò hoặc gỏi cuốn).

Lịch sử và những tiếp thu

Trước thời kỳ thực dân Tây Ban Nha, người Nam Đảo nấu ăn bằng cách luộc, hấp và nướng. Các món ăn bao gồm những món làm từ vật nuôi như kalabaw (trâu nước), baka (bò cái), manok (gà) và baboy (lợn) đến nhiều loại cá và hải sản. Ở một số nơi, chủng loại thịt còn đa dạng hơn, bao gồm cả kỳ đà (tiếng Anh: monitor lizard), rắn và châu chấu. Người Philippines đã trồng lúa từ khoảng năm 3200 trước Công nguyên, thời điểm mà những nhóm tổ tiên người Nam Đảo di cư từ các cao nguyên Vân Nam, Trung Quốc và Đài Loan sang Philippines. Họ mang theo nghề trồng lúa và nhiều truyền thống khác mà vẫn con được gìn giữ cho tới nay. Hoạt động thương mại với các nước châu Á khác đã mang đến cho ẩm thực Philippines nhiều loại gia vị cơ bản như toyo (nước tương) và patis (nước mắm), cũng như là phương pháp xào thực phẩm và làm các nước chấm mặn. Giấm và các loại gia vị cũng được dùng để tồn trữ thực phẩm.

Những người Tây Ban Nha di cư đến Philippines đã mang đến các sản phẩm của châu Mỹ như ớt, cà chua, ngô, khoai tây và cách sauté (xào với lửa lớn) với hành tỏi. Ớt được dùng nhiều ở Philippines hơn là ở các nước Đông Nam Á khác, và lá ớt cũng được dùng như là một loại rau nêm, đây là điểm khác biệt so với các quốc gia láng giềng. Sau đó, các món ăn Tây Ban Nha và México được ẩm thực Philippines tiếp nhận ở mức độ phức tạp hơn với các món ăn dùng cho các dịp lễ. Một số món như arroz a la valencia giữ nguyên hương vị gốc khi được nấu tại Philippines. Các món khác đã được thay đổi cho phù hợp hoặc ít nhiều mang ý nghĩa khác. Arroz a la cubana làm ở Philippines thường có cả bò xay picadillo. Phiên bản món Tây Ban Nha longganisa của Philippines lại giống với một món khác là chorizo. Morcon lại là món bò cuộn chứ không giống với đặc sản xúc xích tròn và béo của Tây Ban Nha.

Dù người Trung Hoa đã có mặt ở Philippines trước thời kỳ Tây Ban Nha, nhưng dân số nhóm người Hoa này chỉ gia tăng nhanh chóng sau khi người Tây Ban Nha thiết lập được sự thống trị ở Philippines. Ẩm thực Trung Quốc nở rộ từ thế kỷ 19 với các quán mì (panciteria) dù thường được quảng cáo với những cái tên Tây Ban Nha. Ảnh hưởng từ ẩm thực thực Trung Hoa (comida China) gồm arroz caldo (cháo), morisqueta tostada (một từ cũ để chỉ sinangag- cơm chiên và chop suey (rau xào thập cẩm).

Ngày nay, ẩm thực Philippines tiếp tục phát triển thêm nhiều phương pháp nấu nướng, trường phái ẩm thực và nhiều nguyên liệu khác vẫn tiếp tục được đưa vào nước này. Các món truyền thống dù đơn giản hay phức tạp, dù có nguồn gốc bản địa hay nước ngoài ngày nay lại trở thành món ăn ngon được phổ biến khắp các nước và được xem là món ăn nhanh.

Đặc trưng

nhỏ|phải| nhỏ|[[bibingka]]

Món ăn Philippines có đặc trưng là sự kết hợp chặt chẽ giữa vị mặn (alat), chua (asim) và ngọt (tamis). Đối với ẩm thực các nước châu Á khác, không có quy tắc rõ rệt về thứ tự bày biện các món ăn, còn đối với ẩm thực Philippines, tất cả các món đều được dọn một lần cùng lúc. Vị bổ trợ nhau là một nguyên tắc trong ẩm thực Philippines, đó là các nguyên liệu ngọt thì phải đi với các nguyên liệu mặn, cuối cùng sẽ đạt kết quả hài hòa vừa miệng rất đáng ngạc nhiên.

Ví dụ như champorado (cháo ngọt nấu với lá ca cao thường được ăn với tuyo (cá muối khô); dinuguan (tiết và lòng lợn nấu mặn) đi với puto (bánh gạo hấp ngọt); cách dùng phô mai có muối trong bánh ngọt (ví dụ: bibingkaputo) và trong kem. Giấm là một nguyên liệu được sử dụng nhiều. Món ăn Adobo nổi tiếng không phải vì tính đơn giản, dễ nấu mà vì có thể trữ nó trong nhiều ngày mà không hư, hơn nữa là sau khi trữ 1-2 ngày, món này còn trở nên ngon hơn. Các món tinapa là cá hun khói, còn tuyo, daing và dangit là cá khô tẩm ngô nổi tiếng vì chúng có thể để được trong nhiều tuần mà không hư, ngay cả khi không để trong tủ lạnh.

Theo truyền thống ở Philippines, nấu nướng và ăn uống là các hoạt động thường ngày và mang tính cộng đồng xung quanh bếp ăn gia đình. Theo truyền thống, người Philippines ăn ba bữa một ngày: agahan hay là almusal (bữa sáng), tanghalían (bữa trưa) và hupunan (bữa tối) cộng với bữa xế gọi là meriénda (còn gọi là minandál hoặc minindál). Bữa xế ăn bình thường. Bữa tối dù là bữa chính nhưng vẫn ít hơn so với các nước khác. Thường thì hoặc là bữa sáng hoặc là bữa trưa ăn nhiều nhất.

Thức ăn được dọn hết ra một lần chứ không theo thứ tự. Không giống các nước châu Á khác, người Philippines không ăn đũa. Vì ảnh hưởng phương Tây, họ dùng nĩa, dao, thìa; bộ đôi đồ dùng cho ăn uống là thìa nĩa chứ không phải dao nĩa như ở phương Tây. Cách ăn uống truyền thống là ăn bằng tay, đặc biệt là với các món khô như inihaw hay prito. Người ăn sẽ nếm món chính trước rồi vò cơm ăn. Cách ăn này gọi là kamayan, ít gặp ở các khu thành thị. Tuy nhiên, người Philippines thường ăn theo cách này vào các chuyến du lịch ra ngoài thành phố, các kỳ nghỉ đến các bãi biển hoặc những dịp lễ hội ở thành phố.

Món ăn phổ biến

nhỏ|trái|upright|[[Gạo là lương thực chính của Philippines]] nhỏ|[[Quất]]

Như hầu hết các nước châu Á, lương thực chính của Phillipines là gạo. Gạo được nấu lên và ăn trong các bữa cơm. Số cơm còn dư sau các bữa ăn thường được chiên với tỏi để làm sinangag, là một món ăn sáng với trứng chiên và các loại thịt muối hoặc xúc xích. Cơm thường được ăn với nước sốt hoặc nước dùng của các món chính. Ở nhiều vùng, cơm được trộn với muối, sữa đặc có đường, ca cao hoặc cà phê. Bột gạo được dùng để làm các món ngọt, bánh bông lan và các loại bánh khác. Ngoài gạo là lương thực chính, bánh mì cũng là một loại thực phẩm chủ lực.

Nhiều loại trái cây và rau cũng được dùng trong nấu nướng. Chuối (có loại chuối Saba), quất (kalamansi), ổi (bayabas), xoài, đu đủ và thơm mang đến hương vị nhiệt đới cho món ăn; ngoài ra các loại rau xanh như rau muống (kangkong), cải thìa (petsay), cải thảo (petsay wombok), bắp cải (repolyo), cà tím (talong), đậu đũa (sitaw) cũng được dùng phổ biến. Dừa được dùng khắp nơi. Cùi dừa được dùng trong các món tráng miệng, nước cốt dừa (kakang gata) có trong các loại sốt, và dầu dừa được dùng để chiên. Những vụ mùa rau lấy củ bội thu như khoai tây, cà rốt, khoai môn (gabi), khoai mì (kamoteng kahoy), khoai mỡ (ube) và khoai lang (kamote) làm cho các loại này rất sẵn có ở mọi nơi. Hỗn hợp cà chua (kamatis), tỏi (bawang) và hành tây (sibuyas) được dùng trong nhiều món ăn.

Các loại thịt chủ lực gồm gà, lợn, bò và cá. Hải sản cũng được ưa thích với diện tích mặt nước lớn quanh quần đảo này. Các sản phẩm đánh bắt chính gồm cá rô phi, cá da trơn (hito), cá măng biển (bangus), cá mú (lapu-lapu), tôm (hipon), tôm he (sugpo), các loài họ cá thu (galunggong, hasa-hasa), cá kiếm, hào (talaba), sò (tahong), nghêu (halaantulya), cua lớn (alimango), cua nhỏ (alimasag), cá tuyết đen, cá ngừ, cá tuyết, cá cờ, mực và cá mực (trong tiếng Philippines đều gọi là pusit). Ngoài ra, tảo biển, bào ngư, lươn cũng được dùng phổ biến.

Cách ăn phổ biến nhất đối với cá là ướp muối, chiên bằng chảo thường hoặc sâu lòng, và đơn giản là ăn với cơm và rau. Chúng cũng có thể được nấu trong nước chua gồm cà chua hoặc me như trong món pangat, hoặc ăn với rau và các thành phần tạo chua làm thành món sinigang, hoặc rim trong giấm và tiêu tạo ra món paksiw, hay cũng có thể nướng than hoặc củi (inihaw). Các cách nấu nướng khác bao gồm escabeche (chua ngọt) và relleno (rút xương và ướp). Cá có thể để lâu bằng các hun khói (tinapa) hoặc phơi khô (tuyo hay daing).

Các món ăn thường kèm theo nước chấm. Món chiên thường được chấm trong giấm, nước tương, nước quất hoặc hỗn hợp của chúng. Patis (nước mắm) được trộn với nước quất chấm cho món hải sản. Nước mắm, mắm cá (bagoong terong), mắm tôm (bagoong alamang) và rễ gừng đập dập (luya) là những gia vị thường được thêm vào món ăn khi nấu hoặc khi dùng.

Bữa sáng

Bữa ăn sáng truyền thống của Philippines gồm pandesa (bánh mì cuộn nhỏ), kesong puti (phó mát trắng), champorado (cháo gạo sô cô la), sinangag (cơm chiên tỏi), và các món thịt như tapa đặc trưng Philippines, longganisa, tocino, bò nấu ngô hoặc là món cá như daing na bangus (cá măng biển muối khô) hay itlog na pula (trứng vịt muối). Cà phê có loại đặc biệt là loại cà phê Barako được sản xuất từ vùng núi cao Batangas nổi tiếng với vị mạnh.

Các từ kết hợp đã được tạo ra trong tiếng Philippines để gọi các thành phần trong bữa sáng Philippines. Ví dụ như là gọi món kankamtuy nghĩa là gọi kanin (gạo), kamtis (cà chua) và tuyo (cá khô). Ví dụ khác là tapsi: nghĩa là gọi món tapa và sinangag. Các ví dụ khác gồm việc dùng hậu tố silog, thường là các loại thịt ăn với sinangagitlog (trứng). Ba món điển hình có silogtapsilog (có tapa là thành phần thịt của bữa ăn), tocilog (có tocino là món thịt) và longsilog (có longganisa là món thịt). Các từ có silog khác là hotsilog (với hot dog- một loại xúc xích), bangsilog (cá măng biển- bangus), dansilog (cá dìa- danggit), spamsilog (với thịt hộp hiệu Spam), adosilog (với adobo), chosilog (với chorizo), chiksilog (với gà), cornsilog (với bò nấu ngô) và litsilog (với thịt lợn quay Tây Ban Nha- lechon). Pankalog là từ thông tục để gọi một bữa sáng có món pandesa, kape (cà phê) và itlog (trứng). Một từ được tạo ra chuyên để gọi các bữa ăn như thế là tapsihan hay tapsilungan.

Bữa xế

Merienda là một từ du nhập từ Tây Ban Nha để gọi bữa ăn nhẹ hoặc ăn chơi, đặc biệt là vào buổi chiều, tương tự như khái niệm bữa trà chiều. Nếu bữa xế được ăn cận bữa tối thì được gọi là merienda cena và có thể được ăn thay cho bữa tối. Người Philippines có một nhiều loại thức ăn có thể ăn kèm với kape (cà phê): bánh mì và bánh ngọt như pandesa, ensaymada (bánh cuộn bơ ngọt phủ phó mát), hopia (loại bánh ngọt tương tự như bánh trung thu với nhân đậu đỏ nhừ) và empanada (bánh mặn bao thịt). Ngoài ra còn có các loại bánh làm từ gạo nếp (kakanin) như kutsinta, sapin-sapin, palitaw, biko, suman, bibingkapitsi-pitsi.

Các món mặn ăn vào bữa xế gồm pancit canton (mì xào), palabok (bún với nước sốt tôm), tokwa't baboy (đậu hũ chiên với tai lợn luộc trong nước tương tỏi và nước sốt giấm) và dinuguan (một món hầm cay với tiết lợn) thường được ăn với puto (bánh bột gạo hấp). Há cảo và các loại bánh viên hấp khác do người Phúc Kiến mang đến đã được thêm vào hương vị Philippines và thường được ăn trong bữa xế. Món ăn đường phố, hầu hết là các món được nướng xiên bằng que tre như mực viên, cá viên và nhiều loại khác cũng là lựa chọn phổ biến.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Ẩm thực Philippines **Ẩm thực Philippines** bao gồm các món ăn, phương pháp chế biến và phong tục ăn uống ở Philippines. Phong cách ẩm thực với các món ăn đặc trưng của nó đã
thumb|[[Gobi Manchurian là một món ăn Trung-Ấn gồm bông cải chiên. Món ăn phổ biến khắp Ấn Độ và các nhà hàng Ấn Độ cũng như các nhà hàng Nam Á trên khắp thế giới.]]
**Ẩm thực Trung Quốc** (, ) là một phần quan trọng của văn hóa Trung Quốc, bao gồm ẩm thực có nguồn gốc từ các khu vực đa dạng của Trung Quốc, cũng như từ
nhỏ|phải|Một [[bữa cơm Việt (với đầy đủ cơm, xôi, thịt, canh, cá, trứng, nước mắm, dưa cải, rau thơm) là một đặc trưng trong Ẩm thực Việt Nam]] nhỏ|phải|Món Thukpa trong [[ẩm thực Ấn Độ]]
nhỏ|phải|Gà Abodong bày bán nhỏ|phải|Gà Abodong **Adobo kiểu Philippines** hay còn gọi là **Adobong** là một biến tấu của món Adobo đã thành một món ăn phổ biến của ẩm thực Philippines. Đây là món
**Philippines** (, tiếng Tagalog/tiếng Filipino: _"Pilipinas"_ hoặc _"Filipinas"_, Hán-Việt: _"Phi Luật Tân"_)_,_ tên gọi chính thức là **Cộng hòa Philippines** (tiếng Tagalog/tiếng Filipino: _Republika ng Pilipinas_; tiếng Anh: _Republic of the Philippines_) là một đảo
Một bát mắm tôm đã vắt chanh và đánh tơi. **Mắm tôm** (tiếng Anh: **shrimp paste**) là loại mắm được làm chủ yếu từ tôm hoặc moi và muối ăn, qua quá trình lên men
**Quất**, hay còn gọi là **tắc** hoặc **hạnh**, danh pháp hai phần: **_Citrus_ × _microcarpa_**, còn được gọi là **calamondin**, **calamansi**, hoặc **chanh vàng Philippine**, là một giống cây lai thuộc chi Cam chanh quan
**Khoai môn** (; **_Colocasia esculenta_**) là một loại rau ăn củ. Đây là loài được trồng rộng rãi nhất trong một số loài thực vật thuộc họ Araceae, được sử dụng làm rau để lấy
**_Camaron rebosado_** là món tôm tẩm bột chiên giòn trong ẩm thực Philippines. Nó thường được dùng với nước sốt chua ngọt và là món ăn phổ biến trong ẩm thực Philippines. Mặc dù có
nhỏ|phải|Gà om sốt cà chua (_Afritadang manok_) **Gà Afritada** hay còn gọi là _gà om sốt cà chua_ là một món ăn trong ẩm thực xứ Phi Luật Tân, bao gồm nguyên liệu chính gồm
**Nước tương**, **tàu vị yểu** hay **xì dầu** là một loại nước chấm được sản xuất bằng cách cho hỗn hợp đậu tương, đậu phộng được rang chín, nước, muối ăn... bằng phương pháp lên
**Khổ qua** hay **mướp đắng** (danh pháp hai phần: **_Momordica charantia_**) với nhiều tên gọi được liệt kê bên dưới, là một loài thực vật thân thảo nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc họ
**Bầu**, tên khoa học **_Lagenaria siceraria_**, là một loài thực vật có hoa trong họ Bầu bí (Cucurbitaceae). Loài này được (Molina) Standl. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1930. ## Mô tả Dây
nhỏ|phải|Một con heo sữa đã bị mổ và chuẩn bị đưa vào chế biến **Heo sữa** hay **lợn sữa** hoặc **lợn bột** là một con lợn con đang trong giai đoạn bú sữa mẹ được
thumb|right|Một số món cà ri rau từ Ấn Độ right|thumb|Món cà ri gà với bơ trong một nhà hàng Ấn Độ thumb|Cà ri đỏ với thịt vịt ở [[Thái Lan]] **Cà-ri** (từ chữ Tamil là
nhỏ|250x250px|Kalesa, một phương tiện vận chuyển trong thành phố truyền thống của Philippines **Văn hóa Philippines** là kết hợp của các nền văn hóa phương Đông và phương Tây. Người Negrito đã định cư tại
**Chính trị Philippines** được tổ chức trong khuôn khổ của một chế độ dân chủ, tam quyền phân lập. Tổng thống Philippines là nguyên thủ quốc gia kiêm người đứng đầu chính phủ, thực hiện
**Bánh phồng tôm** hay đơn giản là **bánh phồng** là một loại bánh thường dùng để ăn nhẹ phổ biến tại các nước Đông Nam Á. Bánh đã chiên có độ giòn, xốp, béo ngậy,
**Chanh Thái**, hay còn gọi là **chúc** (danh pháp hai phần: **_Citrus hystrix_**) thuộc chi Cam chanh, là một loài bản địa của Lào, Indonesia, Malaysia và Thái Lan, hiện được trồng rộng rãi trên
**Rau muống xào** là một món rau phổ biến tại châu Á. Rau muống được xào cùng với các loại rau, gia vị và đôi lúc cả với các loại thịt. Món ăn này thường
**Chả cá** là một loại chả được làm từ cá. Chả cá kiểu châu Á thường chứa cá với đường, nước, bột nhồi và thịt bò. Nó có thể làm bằng sự kết hợp giữa
thumb|Những hũ _atchara_ tại một siêu thị Philippines thumb|_Atchara_ được phục vụ như một món ăn phụ trong bữa sáng của [[người Philippines, _tosilog_]] **_Atchara_** (cũng được đọc là **_achara_** hoặc **_atsara_**) là món ăn
**Cá viên** là một món ăn thông dụng ở miền nam Trung Quốc và trong cộng đồng người Hoa hải ngoại, được làm từ nguyên liệu là cá tách xương, xay nhuyễn (còn gọi là
**Khoai lang** (danh pháp hai phần: **_Ipomoea batatas_**) là một loài cây nông nghiệp với các rễ củ lớn, chứa nhiều tinh bột, có vị ngọt, được gọi là _củ khoai lang_ và nó là
nhỏ|phải|[[Khúc thịt lợn ba chỉ cắt vuông]] nhỏ|phải|Thịt ba chỉ nhỏ|300x300px|Một món thịt ba chỉ kho **Thịt ba chỉ**, **thịt ba rọi** hay **thịt nây** là phần thịt mỡ lẫn nạc không xương từ bụng
nhỏ|phải|Nước mắm Việt Nam thường được đập thêm ớt đỏ cắt nhuyễn và tỏi để trở thành món [[nước chấm tỏi ớt]] nhỏ|phải|Nước mắm Thái Lan sản xuất, pha thêm ớt xanh nhỏ|phải|Nước mắm Nhật
nhỏ|phải|Một dĩa chân gà nướng ở đường Kênh Nước Đen thuộc Bình Hưng Hòa A nhỏ|phải|Chân gà nướng tại Đà Lạt năm 2012 nhỏ|phải|Món chân gà nướng **Chân gà** là một món ăn được chế
**Bánh flan** hay gọi theo tiếng Việt là **bánh lăng** hay **ca-ra-men** (tiếng Pháp: _crème caramel_ và _flan au caramel_) là loại bánh được hấp chín từ các nguyên liệu chính là trứng và sữa,
**Nội tạng động vật** hay còn gọi là **phủ tạng** đề cập đến các cơ quan nội tạng bên trong và bộ phận ruột của một con vật bị xẻ thịt không bao gồm thịt
nhỏ|phải|Trứng vịt bắc thảo ở Việt Nam **Trứng vịt bách thảo** (hay **trứng bắc thảo**, **Bách nhật trứng**, **Thiên niên bách nhật trứng, Bách niên giai thảo**), là một món ăn từ trứng có nguồn
**Há cảo** () là một món ăn có nguồn gốc từ huyện Thuận Đức, Quảng Đông, Trung Quốc. Món ăn này được dùng phổ biến trong các bữa ăn sáng, dimsum. Tên gọi _"Há cảo"_
**Cà cuống** (có khi còn được gọi là **đà cuống** 佗誑 hay **long sắt** 龍蝨, tên khoa học: **_Lethocerus indicus_** Lep. et Serv.) là một loại côn trùng thuộc họ Chân bơi _Belostomatidae_ sống dưới
Thức ăn nhanh tại Việt Nam Một bữa ăn nhanh tiêu biểu ở Hoa Kỳ gồm có 1 [[hamburger, khoai tây chiên (french fries), và l ly nước ngọt]] nhỏ|phải|Một bữa ăn với thức ăn
**Dừa** (_Cocos nucifera_) là một loài thực vật thân gỗ, thành viên thuộc họ Cau (Arecaceae) và là loài duy nhất còn sống thuộc chi _Cocos._ Dừa có mặt khắp nơi tại các vùng nhiệt
Bánh bò, một loại bánh gạo đặc trưng của Việt Nam **Bánh gạo** là tên gọi chỉ chung các loại bánh mặn và bánh ngọt được làm từ bột gạo. Một chiếc bánh gạo bất
**Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines** là mối quan hệ song phương giữa hai nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Philippines, được thiết lập vào ngày 12
**Bánh nướng chảo**, dịch từ **pancake** trong tiếng Anh, hay **bánh phèng la**/ **phèn la** trong tiếng Việt, là một loại bánh phẳng được chế biến từ bột làm từ tinh bột có thể chứa
**Tổng thống Philippines** (tiếng Filipino: , đôi khi được gọi là _Presidente ng Pilipinas_) là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ của Philippines. Tổng thống Philippines lãnh đạo chính phủ và thống
**Phim truyền hình Philippines** (tiếng Tagalog: **teleserye**; ) hay còn gọi là **phim bộ Philippines**, **telenovela Philippines**, **tiểu thuyết truyền hình Philippines** hay **P-drama**, là một dạng phim truyện nhiều tập được cường điệu hóa
nhỏ|Các buồng chuối nấu ăn lớn **Chuối nấu ăn** là tập hợp gồm nhiều giống chuối thuộc chi _Musa_ có quả thường được sử dụng trong nấu ăn. Chuối này không thể ăn được khi
**Bánh gối** Bắc Bộ hay **bánh xếp** ở Nam Bộ (ở Trung Bộ gọi là bánh quai vạc chiên) là một loại bánh xuất xứ từ Hải Phòng, khi ăn bánh vẫn còn giòn tan
Kho vàng của tướng Yamashita Tomoyuki được tìm thấy tại Philippines. Theo các thợ săn kho báu, có khoảng 172 địa điểm ở Philippines được cho là nơi chôn giấu kho vàng của tướng Yamashita,
**Thịt chó**, còn được gọi là **thịt thơm**, là thịt có nguồn gốc từ chó. Trong lịch sử, việc tiêu thụ thịt chó đã được ghi nhận ở nhiều nơi trên thế giới. Vào thế
thumb|Điểm tâm hấp Đây là **danh sách các món hấp** và món ăn thường được chế biến theo phương pháp hấp. ## Món hấp thumb|Bánh tẻ * Ada – một món ăn từ Kerala, thường
**Trứng vịt lộn** (hay **hột vịt lộn**) là món ăn được chế biến từ quả trứng vịt khi phôi đã phát triển thành hình. Trứng vịt lộn là một trong những món ăn nhẹ bình
**Cá rô phi** là tên thông thường của một nhóm loài cá nước ngọt phổ biến, nhưng một số loài trong chúng cũng có thể sống trong các môi trường nước lợ hoặc nước mặn,
**_Nhục can_** (, , ), nghĩa đen là "thịt khô" là một món thịt sấy khô ở dạng lát mỏng có vị ngọt và mặn trong ẩm thực Trung Quốc, gần giống như món khô
**_Sinangag_** (phát âm tiếng Tagalog: [sinɐˈŋag]), còn được gọi là **cơm chiên tỏi** hoặc **cơm tỏi**, là một món cơm chiên của Philippines được nấu bằng cách xào cơm trước với tỏi. Cơm được sử
**Khoai mỡ**, (danh pháp hai phần: **_Dioscorea alata_**) là một loài thuộc chi Củ nâu _Dioscorea_. Đây là loại dây leo cho củ được trồng nhiều ở Ấn Độ, Malaysia, Châu Phi. Đây là loại