✨Altan Khan

Altan Khan

A Nhĩ Thản Hãn (Altan Khan) của người Tümed (1507 - 1582; ​​Tiếng Mông Cổ: Алтан хан, tiếng Trung Quốc: 阿爾坦汗), tên được đặt là Anda (trong tiếng Mông Cổ: ᠠᠨᠳᠠ; tiếng Trung Quốc: 俺答), là thủ lĩnh của người Mông Cổ Tümed, và nhà cai trị thực tế của các bộ lạc phương Tây của người Mông Cổ. Ông là cháu trai của Dayan Khan (1464 - 1543), hậu duệ của Hốt Tất Liệt (1215 - 1294), người đã hợp nhất một liên minh bộ lạc giữa người Khalkha ở phía bắc và người Chahar ở phía nam. Tên của ông có nghĩa là "Khả hãn vàng" trong tiếng Mông Cổ.

Củng cố quyền lực

Borjigin Barsboladiin Altan là con trai thứ hai của Bars Bolud Jinong, và là cháu trai của Batumongke Dayan Khan, người đã tái thống nhất giới quý tộc Mông Cổ trong nỗ lực giành lại vinh quang của nhà Nguyên. Altan Khan cai trị Tümed và thuộc phe cánh hữu của người Mông Cổ cùng với anh trai Gün Bilig, người trị vì Ordos. Sau cái chết của Gün Bilig năm 1542, Altan trở thành thủ lĩnh thực tế của toàn bộ cánh hữu và được trao danh hiệu, "Tösheetü Sechen Khan". trái|nhỏ|Khu vực mà Altan Khan kiểm soát. Khi Bodi Alagh Khan, Khả hãn của người Mông Cổ từ Chahar, qua đời năm 1547, Altan buộc người kế vị của Bodi Alagh là Darayisung Küdeng Khan phải chạy trốn về phía đông. Năm 1551, Darayisung đã thỏa hiệp với Altan để đổi lấy việc trao danh hiệu "Gegeen Khan" cho ông. Altan Khan, người cai trị Ordos tumen của Hoàng Hà được đặt rất tốt để giữ áp lực đối với người Trung Quốc và người Mông Cổ Oirat ở Tây Tạng trong khi phát triển cả nông nghiệp và thương mại.

Altan Khan cũng thành lập thành phố Köke Khota (Hohhot, nghĩa là "Thành phố xanh"), hiện là thủ phủ của Khu tự trị Nội Mông của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Có một bức tượng ấn tượng về ông ở một trong những quảng trường chính của thành phố.

Khai thác quân sự

Altan Khan đã sử dụng sức mạnh quân sự của mình để đe dọa vương triều Minh của Trung Quốc. Ông đã dẫn đầu các cuộc đột kích vào nội địa Trung Quốc vào năm 1529, 1530 và 1542 trở về với sự cướp bóc và chăn nuôi. Năm 1550, ông vượt qua Vạn Lý Trường Thành và bao vây Bắc Kinh, đốt cháy vùng ngoại ô. Năm 1552, Altan Khan giành quyền kiểm soát phần còn lại của Karakorum, thủ đô cũ của Mông Cổ. Hoàng đế Trung Quốc đã buộc phải trao quyền thương mại đặc biệt cho hãn quốc, sau khi ký hiệp ước hòa bình với ông năm 1571, cho phép họ đổi ngựa lấy lụa, điều này càng củng cố kinh tế. Trong triều đại của mình, ông đã thực hiện một số chiến dịch quân sự thành công ở phía tây chống lại những người Oirat nổi loạn, người Kazakh và người Slovak, đưa họ trở lại dưới sự cai trị của ông.

Qua đời và người kế vị

nhỏ|Tranh vẽ Altan Khan. Altan Khan qua đời năm 1582, chỉ bốn năm sau cuộc gặp với Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ ba. Lúc đó ông 74 hoặc 75 tuổi. Altan Khan được kế vị bởi con trai của ông, Sengge Düüreng, người được triều đình nhà Minh ủng hộ. Cháu trai của Altan Khan, Yonten Gyatso, được chọn làm Đạt Lai Lạt Ma thứ 4.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**A Nhĩ Thản Hãn** (Altan Khan) của người Tümed (1507 - 1582; ​​Tiếng Mông Cổ: Алтан хан, tiếng Trung Quốc: 阿爾坦汗), tên được đặt là **Anda** (trong tiếng Mông Cổ: ᠠᠨᠳᠠ; tiếng Trung Quốc: 俺答),
**Daraisung Guden Khan** (tiếng Mông Cổ: Дарайсүн гүдэн хаан, 1520 - 1557) là một Khả hãn của triều đại Bắc Nguyên tại Mông Cổ. Ông là con trai cả của Bodi Alagh Khan. Trong thời
**Tümen Zasagt Khan** (tiếng Mông Cổ: Түмэн засагт хаан, _Tümen zasagt xaan_, 1539-1592) là một Khả hãn của triều đại Bắc Nguyên tại Mông Cổ. Chính trong thời kỳ cai trị của mình, người Mông
**Barsbolad Khan** hay **Barsbolad Jinong Khan** (tiếng Mông Cổ: Барсболд жонон хаан, chuyển tự: _Barsbold Jonon Khaan_, 1490-1531), là một Khả hãn của nhà Bắc Nguyên tại Mông Cổ, trị vì từ năm 1517 đến
**Abtai Sain Khan** (tiếng Mông Cổ: tiếng Абтай сайн хан, 1554 - 1588) là một hoàng tử Khalkha Mông Cổ, được Đạt Lai Lạt Ma thứ 3 phong là hãn đầu tiên của Tusheet năm
**Liên minh Bốn Oirat** (_Dorben Oirad_), còn được gọi là **Liên minh của bốn bộ lạc Oirat** hoặc **Liên minh Ngõa Lạt** (tiếng Ngõa Lạt; tiếng Mông Cổ: Дөрвөн Ойрад; trong quá khứ, cũng gọi
**Badma Erdeni Khong Tayiji** là một hoàng tử Mông Cổ thế kỷ 17 của triều đại Altan Khan. Con trai của Ubasi Khong Tayiji, Altan Khan đầu tiên của Khalkha. Năm 1623, Liên minh bốn
**Mông Cổ thuộc Thanh** (chữ Hán: 清代蒙古), còn gọi là **Mông Cổ Minh kỳ** (蒙古盟旗), là sự cai trị của nhà Thanh của Trung Quốc trên thảo nguyên Mông Cổ, bao gồm cả bốn aimag
**Chuẩn Cát Nhĩ Hãn quốc** (chữ Hán: 準噶爾汗國) hay **Hãn quốc Zunghar**, là một đế quốc du mục trên thảo nguyên châu Á. Hãn quốc nằm trên khu vực được gọi là Dzungaria và trải
**Đạt Diên Hãn** (; Chữ Mông Cổ: ; ), tên thật là **Batumöngke** (; ; Hán-Việt: Ba Đồ Mông Khắc) (1464–1517/1543) là một Đại hãn của nhà Bắc Nguyên tại Mông Cổ. Danh hiệu trị
**Bắc Nguyên** (, tiếng Mông Cổ: , _Umardu Yuwan Ulus_) là vương triều do Bột Nhi Chỉ Cân của người Mông Cổ cai trị vùng Đại Mông Cổ. Nhà Bắc Nguyên khởi đầu bằng việc
**Mông Cổ** (, _Mongolchuud_, ) định nghĩa là một hay một vài dân tộc, hiện nay chủ yếu cư trú tại Trung Quốc, Mông Cổ và Nga. Ước tính có khoảng 11 triệu người Mông
**Minh Thế Tông** (chữ Hán: 明世宗, 16 tháng 9, 1507 - 23 tháng 1, 1567), là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị tổng cộng 45
**Mã Phương** (chữ Hán: 马芳, 1518 – 1581) là tướng lãnh nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Thưở niên thiếu, ông bị bắt cóc làm nô lệ của người Mông Cổ, về sau là
**Tây Tạng** (, tiếng Tạng tiêu chuẩn: /pʰøː˨˧˩/; (_Tây Tạng_) hay (_Tạng khu_)), được gọi là **Tibet** trong một số ngôn ngữ, là một khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal,
**Minh Mục Tông** (chữ Hán: 明穆宗, 4 tháng 3, 1537 - 5 tháng 7, 1572), là Hoàng đế thứ 13 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1567 đến năm
**Trương Cư Chính** (, còn được phiên âm là Chang Chü-cheng, 1525-1582), tự **Thúc Đại** (叔大), hiệu **Thái Nhạc** (太岳), là một nhà chính trị và học giả Trung Quốc thời nhà Minh. Là quan
**Ubasi Khong Tayiji** là một thân vương Mông Cổ thế kỷ 17. Ông là Altan Khan đầu tiên của Khalkha cai trị Khotgoids ở tây bắc Khalkha.Khoảng năm 1609, ông chiếm giữ vùng trung tâm
nhỏ|Cảnh Pranidhi, chùa 9 (Hang 20). Động Thiên Phật Bezeklik. nhỏ|Thương nhân [[Sogdiana cúng dường cho Thích-ca Mâu-ni. Động Thiên Phật Bezeklik.]] nhỏ|Tượng bán thân của một vị [[Bồ tát từ Kucha, thế kỷ thứ
**Hohhot** (tiếng Mông Cổ: Tập tin:Kökeqota.svg, _Kökeqota_, nghĩa là "thành phố xanh"; chữ Hán giản thể: 呼和浩特市, bính âm: Hūhéhàotè Shì, âm Hán Việt: _Hô Hòa Hạo Đặc thị_ hoặc _Hồi Hột_), đôi khi còn
**Thoát Lý** hay **Vương Hãn** ( _Tooril han_ hoặc _Van han_; Tiếng Trung: 王汗; mất năm 1203) là một hãn của người Khắc Liệt. Ông là anda (anh em ruột thịt) của Dã Tốc Cai.
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Damdin Sükhbaatar** (, Chuyển tự Latinh: _Damdin Syhbaatar_) (2 tháng 2 năm 1893 - 20 tháng 2 năm 1923) là một nhà lãnh đạo quân sự trong cuộc cách mạng năm 1921 tại Mông Cổ.
**Mandukhai Khatun** (tiếng Mông Cổ: Мандухай хатан, tiếng Trung: 满都海哈屯, bính âm: _Mǎndūhǎi Hātún_) hay **Mandukhai Sechen Khatun** là một khatun (hoàng hậu) của triều đại Bắc Nguyên tại Mông Cổ. Với người chồng thứ
**Cuộc xâm lược châu Âu của người Mông Cổ** vào thế kỷ 13 là một loạt các cuộc chiến nhằm chinh phục mảnh đất này của người Mông Cổ, bằng con đường tiêu diệt các
thumb|Tổng thống [[Recep Tayyip Erdoğan]] **Các cuộc thanh trừng ở Thổ Nhĩ Kỳ 2016** là những cuộc thanh trừng chính trị đang được tiến hành trong hệ thống tư pháp, công an, giáo dục và
**Tarialan** (tiếng Mông Cổ: Тариалан) là một sum của tỉnh Uvs ở Mông Cổ. Vào năm 2008, dân số của sum là 4.004 người. ## Lịch sử Sum được thành lập vào năm 1925 với
**Nguyên Thiên Thuận Đế** (tiếng Hoa: 元天顺帝; 1320-1328) tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân A Tốc Cát Bát** (孛兒只斤阿剌吉八; Borjigit Arigabag), Hoàng đế thứ 7 của nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc và
**Nguyên Anh Tông** (chữ Hán: 元英宗; 1302 - 1323), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Thạc Đức Bát Thích** (Borjigin Shidibala), là Hoàng đế thứ năm của nhà Nguyên và là Đại hãn thứ
**Lưu vực Hồ Uvs** (tiếng Nga: Увс нуурын хотгор, tiếng Mông Cổ:: Увс нуурын хотгор, _Uws núrīn hotgor_) là một Lòng chảo nội lục nhỏ nằm trên biên giới của Mông Cổ và Cộng hòa