✨Alexander Alekhine

Alexander Alekhine

Alexander Alexandrovich Alekhine, PhD (, ; 24 tháng 3 năm 1946) là vua cờ thứ tư. Ông thường được xem là một trong những kỳ thủ vĩ đại nhất trong lịch sử.

Khi vào tuổi 22, ông đã thuộc nhóm những kỳ thủ mạnh nhất thế giới. Trong suốt thập kỉ 1920, ông vô địch phần lớn các giải đấu mình tham dự. Năm 1927, ông trở thành vua cờ thứ tư sau khi đánh bại José Raúl Capablanca. Đó là trận tranh ngôi vô địch thế giới kéo dài nhất cho đến năm 1985.

Vào đầu thập niên 1930, Alekhine thống trị các giải đấu cờ và vô địch ở hai giải hàng đầu với số điểm cách biệt. Ông cũng ngồi bàn đầu tiên của đội tuyển Pháp dự 5 Olympiad cờ vua, mỗi giải đều có giải thưởng cá nhân (4 huy chương cá nhân và một giải thưởng đặc biệt). Alekhine từng đề nghị Capablanca một trận tái đấu với những điều kiện như Capablanca đã đặt ra cho ông, nhưng thương lượng không đi đến kết quả và trận tái đấu đó đã không xảy ra. Trong khi đó, Alekhine bảo vệ thành công danh hiệu vô địch một cách khá dễ dàng trước Bogoljubov năm 1929 và 1934. Ông thất bại trước Euwe năm 1935, nhưng sau đó đã lấy lại ngôi vua cờ vào năm 1937. Tuy nhiên, ở thời điểm đó, kết quả đấu giải của ông thất thường và các ngôi sao trẻ mới nổi như Keres, Fine và Botvinnik đã có ý định trở thành nhà thách đấu. Các cuộc đàm phán về một trận tranh ngôi vua cờ với Keres hoặc Botvinnik đã bị hoãn lại do Chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra tại châu Âu năm 1939. Khi cuộc thương thuyết về trận tranh ngôi vua cờ với Botvinnik đang diễn ra năm 1946 thì Alekhine qua đời tại Bồ Đào Nha với nguyên nhân không rõ ràng.

Alekhine được biết tới với phong cách tấn công sáng tạo và sắc bén, kết hợp với kĩ năng cờ vị trí và tàn cuộc bậc thầy. Alekhine còn là một tác giả sách cờ và nhà lý thuyết được đánh giá cao, có nhiều sáng tạo đóng góp cho khai cuộc, được đặt tên cho Phòng thủ Alekhine và một số biến khai cuộc khác. Ông cũng là tác giả của một số bài tập tàn cuộc.

Tiểu sử

Thời thơ ấu

Alekhine sinh ra trong một gia đình khá giả ở Moskva, Nga. Tháng 7 năm 1914, Alekhine đồng hạng nhất với Marshall tại một giải ở Paris

Tháng 10 năm 1926, ông vô địch một giải đấu ở Buenos Aires. Từ tháng 12 năm 1926 đến tháng 1 năm 1927, Alekhine thắng Max Euwe 5½–4½ trong một trận đấu. Trong năm 1927 ông cưới người vợ thứ ba Nadiezda Vasiliev (nhũ danh Fabritzky), cũng là một phụ nữ hơn tuổi. Bà là góa phụ của viên tướng Nga V. Vasiliev . Alekhine tham dự các giải cờ ở Munich, Salzburg, Kraków/Warszawa và Praha, do Ehrhardt Post, the Chief Executive of the Nazi-controlled Grossdeutscher Schachbund ("Greater Germany Chess Federation"), tổ chức. Keres, Bogoljubov, Stoltz và một số kì thủ mạnh khác ở trong vùng bị Đức Quốc xã chiếm đóng cũng dự những giải này và vô địch tại Madrid (tháng 12). Vào năm tiếp theo ông vô địch tại Giải cờ vua Salzburg 1942 (tháng 6) và Munich (tháng 9. Chính quyền Quốc xã gọi giải đó là Europameisterschaft, có nghĩa là "Giải vô địch châu Âu"). Later in 1942 he won at Warsaw/Lublin/Kraków (the 3rd GG-ch; October 1942) and tied for first with Klaus Junge in Prague (Duras Jubileé; December 1942). Năm 1943 ông hòa một trấn đấu nhỏ (+1 −1) với Bogoljubov ở Warszawa (tháng 3), vô địch ở Praha (tháng 4) và đồng vô địch với Keres ở Salzburg (tháng 6).

Từ cuối năm 1943, phần lớn thời gian Alekhine ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, đại diện cho Đức trong các giải đấu. Điều này giúp ông tránh được quân Liên Xô đang chiếm lại các khu vực ở Đông Âu. Năm 1944, ông thắng sít sao trận đấu với Ramón Rey Ardid ở Zaragoza (+1 −0 =3; tháng 4) và vô địch giải ở Gijon (tháng 7). Năm 1945, ông vô địch ở Madrid (tháng 3), đồng hạng nhì với Antonio Medina ở Gijón (tháng 7; Antonio Rico vô địch), vô địch tại Sabadell (tháng 8), đồng vô địch với F. López Núñez ở Almeria (tháng 8), vô địch ở Melilla (tháng 9) và về nhì ở Caceres, xếp sau Francisco Lupi (mùa thu 1945). Trận đấu cuối cùng của Alekhine là gặp Lupi tại Estoril gần Lisbon, Bồ Đào Nha, vào tháng 1 năm 1946. Alekhine thắng 2, hòa 1 và thua 1.

Những năm tháng cuối đời

thumb|upright|Mộ của Alexander Alekhine ở Paris, Pháp Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Alekhine không còn được mời tham dự giải đấu nào ngoài bán đảo Iberia, bởi vì những cáo buộc cộng tác với Đức Quốc xã trong chiến tranh. Lời mời tham dự Giải London năm 1946 cũng bị hủy vì sự phản đối của các đấu thủ khác. Một giả thiết khác thì cho rằng một "nhóm sát nhân" của Pháp đã ám sát ông. Thời gian sau này, con trai của Alekhine, Alexander Alekhine Junior, cho rằng "bàn tay của Moskva đã nhúng vào vụ việc". Đại kiện tướng người Canada Kevin Spraggett từng sống ở Bồ Đào Nha vào cuối thập niên 1980, cũng từng nghiên cứu về cái chết của Alekhine, ủng hộ giả thuyết này. Spraggett makes a case for the manipulation of the crime scene and the autopsy by the Portuguese secret police PIDE. Ông tin rằng Alekhine bị ám sát bên ngoài phòng khách sạn, có thể do người Liên Xô thực hiện.

Đám tang của Alekhine được FIDE tài trợ. Mộ phần của ông đặt tại Nghĩa trang Montparnasse, Paris, Pháp từ năm 1956 . Tuy nhiên trang web "Chessmetrics" lại xếp ông ở mức giữa thứ tư và thứ tám mọi thời đại, dựa vào độ dài thời gian đỉnh cao và kết luận rằng khi ở đỉnh cao thì ông mạnh hơn một chút so với Emanuel Lasker và Capablanca, chỉ yếu hơn một chút so với Botvinnik Ông cũng đánh giá rằng chiến thắng của Alekhine ở giải San Remo năm 1930 đứng thứ sáu về hiệu suất thi đấu as the sixth best performance ever in tournaments.

Sau khi Alekhine giành lại ngôi vô địch thế giới vào năm 1937, there were several new contenders, all of whom would have been serious challengers. A later computer-assisted analysis concludes that White can force a win, but only by diverging from Alekhine's move sequence at move 20, while there are only three queens.

Nhà nghiên cứu lịch sử cờ Winter điều tra một ván đấu bị nghi ngờ của Alekhine khi thắng sau 15 nước bằng việc thí hậu ở Sabadell năm 1945

  • Ký hiệu: + số ván thắng, − số ván thua, = số ván hòa

Các trận đấu tay đôi

Here are Alekhine's results in matches:

  • Under score, + games won, − games lost, = games drawn

Kết quả tại các Olympiad cờ vua

Dưới đây là kết quả của Alekhine tại các Olympiad cờ vua. Ông đều ngồi bàn đầu của Pháp tại tất cả các giải đấu.

  • Ký hiệu ở điểm số: + ván thắng, − ván thua, = ván hòa

Thông tin khác

Tại thị trấn Cascais, Bồ Đào Nha, có một con phố mang tên Alekhine: [http://maps.google.com/maps?f=q&source=s_q&hl=pt-PT&q=R.+Alexander+Alekhine,+Estoril,+2765+Cascais,+Lisboa,+Portugal&sll=37.0625,-95.677068&sspn=62.355813,135.263672&ie=UTF8&cd=1&geocode=FXGYTgIdGvdw_w&split=0&hq=&hnear=R.+Alexander+Alekhine,+Estoril,+2765+Cascais,+Lisboa,+Portugal&ll=38.705272,-9.373913&spn=0.015288,0.033023&z=16 Rua Alexander Alekhine]. Cascais ở gần Estoril, nơi Alekhine qua đời.

Một giải cờ vua mang tên ông: Giải cờ vua Tưởng niệm Alekhine được tổ chức một vài lần và từ năm 2013 nó trở thành giải đấu thường niên, quy tụ các kỳ thủ hàng đầu thế giới tham gia.

Cuốn sách My Best Games of Chess 1924–1937 (Những ván đấu hay nhất của tôi giai đoạn 1924–1937) được dựng thành bộ phim năm 1946 A Matter of Life and Death.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Alexander Alexandrovich Alekhine**, PhD (, ; 24 tháng 3 năm 1946) là vua cờ thứ tư. Ông thường được xem là một trong những kỳ thủ vĩ đại nhất trong lịch sử. Khi vào tuổi
nhỏ|Đương kim vô địch thế giới [[Gukesh Dommaraju người Ấn Độ|290x290px]] **Giải vô địch cờ vua thế giới** là giải đấu được tổ chức để xác định nhà vô địch thế giới về cờ vua.
**Paul Keres** (7 tháng 1 năm 19165 tháng 6 năm 1975) là một Đại kiện tướng cờ vua người Estonia đồng thời là tác giả viết về cờ vua. Ông nằm trong top những kỳ
**Ván cờ Tây Ban Nha**, hay cũng thường được gọi là **Khai cuộc Tây Ban Nha** hoặc **Ruy López** là một khai cuộc cờ vua đặc trưng bởi các nước đi sau: :1. e4 e5
**Vladimirs Petrovs** hay **Vladimir Petrov** (27 tháng 9 năm 1908 – 26 tháng 8 năm 1943) là một kiện tướng cờ vua người Latvia. Ông sinh ra tại Riga, Latvia. Mặc dù ông học cờ
**Gambit Đan Mạch**, được biết đến với cái tên **' trong tiếng Đức và **' trong tiếng Hà Lan (đều có nghĩa là **Nordic Gambit**), một khai cuộc được bắt đầu với các nước đi:
**Đại kiện tướng** là danh hiệu được trao tặng cho các kỳ thủ cờ vua mạnh bởi Liên đoàn Cờ vua Thế giới (FIDE). Trừ danh hiệu Vô địch Cờ vua Thế giới, đây là
thumb|upright=1.1|Con tem Liên Xô phát hành nhân dịp Giải vô địch cờ vua thế giới 1948, với hình ảnh của [[Tòa nhà Liên bang là nơi tổ chức giải đấu.]] **Giải vô địch cờ vua
**Gambit Hậu** (tiếng Anh: _Queen's Gambit_) là một khai cuộc cờ vua bắt đầu bằng các nước cờ: : 1. d4 d5 : 2. c4 Gambit Hậu là một trong những khai cuộc cổ
right|thumb|Paul Morphy **Số Morphy** mô tả độ "gần" của một kỳ thủ cho đến Paul Morphy (1837–1884) trong cờ vua. Những người chơi cờ trực tiếp với Morphy có số Morphy bằng 1. Những người
**Salomon Mikhailovich Flohr** (21 tháng 11 năm 1908 – 18 tháng 7 năm 1983) là một nhà văn và kỳ thủ cờ người Tiệp Khắc và Liên Xô. Ông là một trong những người đầu
Trong cờ vua, **Tốt chồng** hay **Tốt trùng** là hình thế mà có hai Tốt trở lên ở cùng bên (cùng bên Trắng hoặc Đen) nằm trên cùng một cột. ## Cặp tốt chồng Nếu
**Bẫy Rubinstein** là một cái bẫy trong khai cuộc Gambit Hậu không tiếp nhận (QGD), biến Phòng thủ Orthodox. Trong thế cờ ở hình bên, Đen sẽ mất Tốt sau khi Mxd5 do mối đe
**Nikolay Mikhaylovich Zubarev** (; 10 tháng 1 năm 1894 – tháng 1 năm 1951) là một vận động viên cờ vua người Nga. Ông đã giành chức vô địch Moskva hai lần. ## Sự nghiệp
**Phòng thủ Hà Lan** là một khai cuộc cờ vua đặc trưng bởi các nước đi: 1. d4 f5 Nước đi 1... f5 của bên đen nhằm hóa giải e4 và mường tượng ra một
**Cờ vua** (), đôi khi còn được gọi là **cờ quốc tế** để phân biệt với các biến thể như cờ tướng, là một trò chơi board game dành cho hai người. Sau thời gian
nhỏ|Một con tem của Liên Xô dành riêng cho Giải vô địch cờ vua thế giới 1984 **Giải vô địch cờ vua thế giới 1984** là trận đấu giữa người thách đấu Garry Kasparov và
Ngày **31 tháng 10** là ngày thứ 304 (305 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Nó là ngày cuối cùng trong tháng 10, với 61 ngày còn lại trong năm. Ngày này được biết đến
**_Chessmaster_** (tạm dịch: _Kiện tướng cờ vua_) là dòng trò chơi máy tính thuộc thể loại cờ vua hiện thuộc quyền sở hữu và phát triển của Ubisoft. Là một trong những sản phẩm thương
**Movsas Feigins** hay **Movša Feigins** (28 tháng 2 năm 1908 – 11 tháng 8 năm 1950) là một kiện tướng cờ vua người Latvia. ## Tiểu sử Movsas Feigins sinh ra tại Dvinsk (trước đây
**Hermanis Matisons** (1894–1932), (còn được biết đến là **Herman Mattison**), là một kỳ thủ Latvia và là một trong những kiện tướng cờ vua được đánh giá cao trên thế giới đầu thập kỷ 1930.
**Fedir Parfenovych Bohatyrchuk** (còn gọi là _Bogatirchuk_, _Bohatirchuk_, _Bogatyrtschuk_) (; , _Fyodor Parfenyevich Bogatyrchuk_; 27 tháng 11 năm 1892 – 4 tháng 9 năm 1984) là một kỳ thủ cờ vua, bác sĩ y khoa
**Bẫy Noah's Ark** là một cái bẫy trong khai cuộc Ruy Lopez. Trên thực tế tên gọi "bẫy Noah's Ark" được sử dụng để mô tả một loạt các bẫy trong Ruy Lopez có chung
**Tigran Vartanovich Petrosian** (; ; 17 tháng 6 năm 1929 – 13 tháng 8 năm 1984) là một Đại kiện tướng cờ vua người Armenia–Liên Xô và là nhà vô địch thế giới từ năm 1963
**José Raúl Capablanca y Graupera** (19 tháng 11 năm 1888 – 8 tháng 3 năm 1942) là một kỳ thủ cờ vua người Cuba và là nhà vô địch cờ vua thế giới từ năm
**Giải đấu Ứng viên** là giải đấu cờ vua được Liên đoàn cờ vua thế giới (FIDE) tổ chức kể từ năm 1950. Đây là giải đấu cuối cùng để xác định người thách đấu
**Phòng thủ Pháp** là một khai cuộc trong cờ vua đặc trưng bởi các nước đi sau: :1.e4 e6 Khai cuộc này nổi tiếng chắc chắn và có một lợi thế qua lại, tức là
**David Ionovich Bronstein** (Дави́д Ио́нович Бронште́йн; 19 tháng 2 năm 1924 – 5 tháng 12 năm 2006) là một Đại kiện tướng cờ vua người Liên Xô, kỳ thủ suýt giành danh hiệu Vô địch