✨Air

Air

là một visual novel do hãng phần mềm Key phát triển, công ty này cũng cho ra đời hai tác phẩm nổi tiếng khác là KanonCLANNAD. Lúc đầu nó là một trò chơi dành cho người lớn phát hành vào ngày 8 tháng 9 năm 2000 dưới dạng CD-ROM trên hệ máy tính cá nhân (PC). Các phiên bản sau của AIR được cắt bỏ mọi cảnh gợi cảm và phát hành trên các hệ máy PC, Dreamcast và PlayStation 2. Phiên bản PC dành cho người lớn được tái phát hành tương thích với Windows 2000/XP với tên AIR Standard Edition vào ngày 8 tháng 4 năm 2005. Các phiên bản sử dụng trên các hệ PlayStation Portable, SoftBank 3G và FOMA cũng ra mắt trong năm 2007. Key tiếp tục tái phát hành AIR tương thích với hệ điều hành Windows Vista vào tháng 7 năm 2009 và phiên bản AIR Memorial Edition tương thích với hệ điều hành Windows 7 vào tháng 5 năm 2010, hai bản dành cho Vista/7 đã được đánh giá là dành cho mọi lứa tuổi.

Cách chơi của AIR theo lối tuyến tính, tuy chỉ đi theo cốt truyện định sẵn nhưng người chơi có thể tương tác để tạo ra các kết thúc khác nhau. Cốt truyện chủ yếu đi sâu vào nội tâm của ba nhân vật nữ chính. Visual novel này phân ra làm ba phần: Dream, Summer và Air là ba giai đoạn khác nhau trong toàn bộ cốt truyện. Một trong những phiên bản đầu của AIR cho phép người chơi nhìn thấy một số cảnh hentai giữa nhân vật nam chính và một trong ba nhân vật nữ khi tiến đến một mốc nào đó trong quá trình tương tác. Tựa đề của visual novel này đã nói lên chủ đề chính là gió và bầu trời cùng việc sử dụng hình ảnh đôi cánh trong suốt cốt truyện.

AIR cũng được chuyển thể thành nhiều loại hình truyền thông khác. Các loạt manga chuyển thể từ visual novel được đăng lần đầu tiên tại Nhật Bản trên tạp chí Comptiq và xuất bản bởi Kadokawa Shoten; một loạt manga khác phát hành đều đặn từ tháng 8 năm 2004 đến tháng 2 năm 2006 được minh họa bởi Katsura Yukimaru. Mười ba tập anime thực hiện bởi Kyoto Animation đã phát sóng tại Nhật Bản từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2005. Hai tập anime phụ theo của AIR với tựa đề AIR in Summer cũng đã phát sóng vào tháng 8 và tháng 9 năm 2005. Trong lúc loạt phim truyền hình vẫn còn phát sóng thì bộ phim nhựa cùng tên, thực hiện bởi Toei Animation, đã trình chiếu trong các rạp chiếu phim tại Nhật Bản vào tháng 2 năm 2005. Toàn bộ anime tính luôn hai tập thêm cùng một phim đã được đăng ký bản quyền và phát hành tại Bắc Mỹ bởi ADV Films, nhưng bản quyền này đã chuyển giao cho Funimation vào tháng 7 năm 2008. Một bộ hộp đĩa chứa 9 drama CD dựa trên AIR cũng được phát hành bởi Lantis từ tháng 8 năm 2005 đến tháng 1 năm 2006. Phần Air với nhân vật chính là Misuzu cũng là đoạn kết của visual novel. Thời gian trong AIR gói gọn trong mùa hè, mùa có những bóng cây tươi mát cùng ánh sáng mặt trời chan hòa trong thành phố. Trong phiên bản manga chuyển thể, thành phố này được miêu tả là "một thị trấn tĩnh lặng vắng người... không có gì khác ngoài những bãi biển và vùng nông thôn". Trợ lý kịch bản Suzumoto Yūichi từng nhận xét rằng ấn tượng đầu của ông với AIR tương tự như một khúc dân ca do phong cảnh nông thôn và các tiến triển cảm động của câu chuyện thiết lập nên, và Michiru thích thú khi xem bọt bong bóng bay trên trời cao. Kano muốn có một đôi cánh để bay, trong khi Kanna đã có sẵn chúng rồi. Misuzu đặt tên cho con quạ cô tìm thấy là —trong tiếng Nhật có nghĩa là bầu trời. Một chủ đề quan trọng khác là tình mẫu tử, cốt truyện của bốn nhân vật chính, bao gồm cả Yukito, đều đề cập đến mẹ của họ, dù là mẹ ruột hay mẹ nuôi. Người viết kịch bản chính là Maeda Jun bình luận rằng ông thích nhân vật người mẹ cho tác phẩm của mình hơn nếu phải chọn lựa giữa ba hoặc mẹ (giống với tác phẩm trước của Key cũng có sự tham gia của Maeda là Kanon), và điều này đã áp dụng trong AIR, ông còn nhấn mạnh quan điểm của mình rằng trong bishōjo game, nhân vật nữ luôn là tâm điểm. Uraha, mẹ của Yukito, và thậm chí cả bản thân Yukito đều có thể sử dụng phép thuật, mặc dù Yukito chỉ thể hiện được một phần nhỏ khả năng của anh. Kano từng nói rằng chị cô bảo khi lớn lên rút sợi ruy băng màu vàng khỏi cổ tay thì sẽ có được năng lực làm phép.

Nhân vật chính

phải|Từ trái sang phải: Kano, Misuzu và Minagi - 3 nhân vật nữ chính của visual novel. Người chơi sẽ nhập vai Kunisaki Yukito, nhân vật chính của AIR. Anh là một thanh niên nghèo đi lang thang từ thị trấn này sang thị trấn khác diễn rối mưu sinh, và không tin tưởng người mình chỉ mới gặp lần đầu. Dù lớn tuổi hơn ba nhân vật nữ chính, Yukito nhiều khi khá ngây ngô và có những hành động như con nít khi bị khiêu khích. Anh thường quan tâm giúp đỡ những người xung quanh và làm hết sức để trông nom Misuzu trong câu chuyện ở phần Dream. Kamio Misuzu, một trong những nhân vật nữ chính của AIR, là một cô gái vui tính và có phần hơi vụng về trong trường cũng như ở nhà, cô thường giả tiếng kêu gao của khủng long mỗi khi bối rối hay muốn khóc. Thói quen này xuất phát từ một kỉ niệm lúc cô còn bé và khiến Misuzu bị xem là quá trẻ con dù cô đang học trung học. Thêm vào đó Misuzu giao tiếp rất kém, và thú tiêu khiển chính của cô là chơi những trò chơi đơn giản. Misuzu có một sở thích đặc biệt về khủng long, cô tìm kiếm các mẩu chuyện về sự tuyệt chủng "vĩ đại" của chúng. Yukito gặp nhân vật nữ chính thứ hai là Kirishima Kano cũng học chung trường với Misuzu. Cô rất nhanh nhẹn, hoạt bát và thường nói ra những câu nói từ kì lạ đến vô nghĩa. Kano kết bạn với một con chó hoang cũng kì lạ không kém là Potato, nó thường chạy xung quanh cô và trò chuyện với cô bằng những tiếng kêu khác thường, Kano còn thừa nhận rằng cô hiểu nó đang nói gì. Giống như Misuzu, Kano cũng có một tính cách rất trẻ con, cô luôn tin vào những điều hư cấu mà chị gái kể cô nghe lúc còn nhỏ. Nhân vật nữ chính cuối cùng mà Yukito đã gặp là bạn cùng lớp với Misuzu có tên Tohno Minagi, học sinh xuất sắc nhất trường có tính cách khá trầm tĩnh và hay xấu hổ, cô sống khá đơn độc và tách biệt với người khác. Trước khi làm quen với Yukito, người bạn duy nhất của cô là Michiru, bé gái cô gặp lúc nhỏ khi đang thổi bọt bong bóng ở trạm xe lửa bỏ hoang.

Cốt truyện

Cốt truyện của AIR xoay quanh ba cô gái mà cuộc sống của họ có mối liên hệ với cùng một chàng trai. Trong phần mở đầu của visual novel là Dream, anh chàng diễn viên rối Kunisaki Yukito đi du hành khắp Nhật Bản, tiếp tục thực hiện nhiệm vụ truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác của gia đình anh: tìm kiếm "cô gái trên bầu trời". Câu chuyện bắt đầu vào thứ hai, ngày 17 tháng 7 năm 2000.

Hôm sau, Yukito gặp một cô gái có tên Kirishima Kano và con chó Potato đi lạc; Kano và Misuzu học chung một trường trung học. Cuối ngày, Yukito lại gặp cô gái thứ ba là Tohno Minagi, bạn cùng lớp của Misuzu, và cô bé Michiru, bạn thân của Minagi. Giống như Misuzu, cả Kano và Minagi đều có những tính cách kì lạ được kết nối với một quá khứ bí ẩn. Không bao lâu sau, một truyền thuyết về "mùa hè thứ một ngàn" bắt đầu mở ra, những bí ẩn trong quá khứ dần phơi bày chủ yếu dựa vào mối quan hệ giữa Yukito và Misuzu. "Cô gái trên bầu trời" mang một lời nguyền mà Yukito tìm kiếm bấy lâu nay hóa ra chính là Misuzu. Trong thời gian Yukito khám phá ra sự thật đó, Misuzu đã bước sang tuổi 15 và đem lòng yêu anh. Một khi chuyện này đến gần và xảy ra, "cô gái trên bầu trời" bị lời nguyền buộc phải chết. Nội dung còn lại trong phần này tập trung vào những nỗ lực cứu sống Misuzu của Yukito, cố gắng tìm cách phá bỏ lời nguyền.

Trong kịch bản tiếp theo là Summer, các sự kiện xảy ra cũng vào mùa hè cách thời điểm hiện tại (phần Dream) một ngàn năm, lấy bối cảnh ở thời đại Bình An. Kannabi no mikoto, hay Kanna, là một trong những sinh vật có cánh cuối cùng còn sót lại trong thế giới hư cấu của AIR, đang bị giam lỏng như một tù nhân trong chính tòa lâu đài của mình. Vì đôi cánh của mình, Kanna không được phép vượt qua các bức tường bao bọc tòa thành hay gặp mẹ mình, người cũng mắc phải cảnh ngộ tương tự ở một nơi khác. Với sự giúp đỡ của Ryūya, một thành viên của đội cận vệ samurai lo việc bảo vệ cô, và Uraha, một pháp sư tập sự, Kanna đã trốn thoát khỏi lâu đài, đi chu du trong thời phong kiến Nhật Bản và tìm gặp được mẹ mình. Không may, những cận vệ còn lại cùng những giáo phái Phật đạo đuổi kịp và vây bắt họ. Cuối cùng, những pháp sư đặt một lời nguyền lên cơ thể của Kanna, khiến cô muôn kiếp phải chịu đựng đau đớn và cả cái chết mỗi khi tìm thấy tình yêu; Misuzu là một trong những hậu thế của cô.

Trong phần cuối visual novel là Air, mong ước cuối cùng của Yukito là cứu sống Misuzu đã được đền đáp. Câu chuyện bắt đầu lại từ phần Dream, mặc dù nó thông qua cái nhìn của một con quạ mà Misuzu nhặt được tên là Sora. Có nhiều điều mới được tiết lộ mà trước đó chưa biết theo vai của Yukito trong phần Dream và chính anh cũng đã biến mất trong suốt phần cuối này. Sau khi tìm thấy Sora và mang nó về nhà, bệnh tình của Misuzu chuyển xấu và thậm chí cô còn quên mất Haruko. Cha của Misuzu thường xuất hiện trong phần này và muốn đưa cô trở về nhà ông, nhưng Haruko khẩn thiết cầu xin ông cho cô thêm ba ngày để Misuzu tự quyết định sẽ ở lại hay quay về, và ông chấp nhận. Ba ngày sau, người cha trở lại và nhận ra tình cảm thắm thiết giữa Misuzu và Haruko; ông quyết định tiếp tục cho họ sống cùng với nhau. Phần còn lại của Air nói về tình mẫu tử giữa hai mẹ con Haruko và Misuzu, theo đó đỉnh cao cảm xúc là cái chết của Misuzu.

Phát triển

Sau khi hoàn thành Kanon, các nhân viên của công ty Key bắt đầu sản xuất AIR và tăng cường thêm nhân lực so với Kanon. Nhà điều hành sản xuất AIR là Baba Takahiro ở Visual Art's, công ty mẹ của Key. Dự án AIR do Maeda Jun đứng đầu, một trong hai tác giả viết kịch bản chính, người còn lại Ishikawa Takashi. Nhóm trợ lý kịch bản gồm bốn người: Fujii Kazuki, Kai, Okano Tōya và Suzumoto Yūichi. Chỉ đạo nghệ thuật là họa sĩ nổi tiếng của Key, Hinoue Itaru, bà cũng đảm nhiệm khâu thiết kế nhân vật. Miracle Mikipon, Na-Ga và Shinory thay phiên cung cấp các hình vẽ trên máy tính; phông nền do Din và Torino thiết kế. Phần lớn âm nhạc của visual novel soạn bởi Orito Shinji và Togoshi Magome, người bắt đầu cộng tác với Key kể từ AIR.

Maeda Jun, nhà biên kịch chính của AIR, bình luận rằng trong giai đoạn đầu của quá trình sản xuất tựa game này, các nhân viên đã quyết định sẽ phát triển nó thành một trò chơi dành cho người lớn, và ông tiếp tục khẳng định rằng nếu phiên bản đầu tiên không chứa những nội dung người lớn, AIR chưa chắc sẽ mang lại doanh thu cao trong thị trường game Nhật Bản. Game engine chính dùng để thiết kế AIR là AVG32, một chương trình do Visual Art's tự phát triển và sử dụng để làm nền tảng trợ giúp cho những thương hiệu của họ.

Lịch phát hành

AIR phát hành vào ngày 8 tháng 9 năm 2000 dành riêng cho hệ máy PC dưới dạng gói phiên bản giới hạn, bao gồm hai đĩa CD-ROM cần thiết cho trò chơi cùng một album nhạc Ornithopter. Phiên bản DC (Dreamcast) cũng có bổ sung thêm một số cảnh mới chưa từng xuất hiện trong phiên bản gốc đầu tiên.

Phiên bản thứ hai dành cho PlayStation 2 (PS2) phát hành ngày 8 tháng 8 năm 2002. Sau khi các bản PS2 đã bán đủ số lượng tiêu chuẩn, ba năm sau đó vào ngày 1 tháng 9 năm 2005, một phiên bản rẻ hơn cho PS2 hay còn biết đến với tên "Best Version" được bán với giá chỉ bằng một nửa so với phiên bản đầu trên PS2. Nhiều cảnh mới đã được thêm vào các bản console để bù đắp cho sự thiếu sót nội dung khiêu dâm.

Bản tiêu chuẩn của AIR (AIR Standard Edition) ra mắt ngày 8 tháng 4 năm 2005 hỗ trợ thêm khả năng tương thích với Windows 2000/XP có ổ DVD. Chỉ phiên bản này, phiên bản giới hạn đầu tiên và phiên bản chính thức là có chứa cảnh gợi cảm. Phiên bản trên điện thoại FOMA chia làm hai tập tin riêng biệt: câu chuyện của phần Dream nằm trong tập tin đầu tiên, và hai phần còn lại là Summer và Air nằm trong tập tin thứ hai. Một bản cập nhật của AIR tương thích với Windows Vista được Key công bố ngày 31 tháng 7 năm 2009 trong một hộp chứa năm visual novel khác của hãng này nhân dịp kỉ niệm 10 năm thành lập Key (Key 10th Memorial Box); giống như các bản PC khác, phiên bản này cũng không có lồng tiếng và được đánh giá là dành cho mọi lứa tuổi. Một bản cập nhật khác tương thích với Windows 7 gọi là AIR Memorial Edition đã phát hành ngày 28 tháng 5 năm 2010 cũng được đánh giá dành cho mọi lứa tuổi.

Các chuyển thể

Manga và sách xuất bản

Manga AIR được đăng thường kì trên tạp chí chuyên về trò chơi máy tính Comptiq từ 10 tháng 8 năm 2004 đến 10 tháng 2 năm 2006. Từng chương truyên riêng lẻ sau này được tổng hợp thành hai quyển riêng biệt do Kadokawa Shoten xuất bản. Cốt truyện chuyển thể từ nguyên bản visual novel trước đó và minh họa bởi họa sĩ người Nhật Katsura Yukimaru. Tổng cộng có 15 chương chính chia ra trong hai tập truyện (chín ở tập 1 và sáu ở tập 2), cùng hai phụ chương ở cuối mỗi tập. Các bản manga diễn tả chi tiết cốt truyện trong hai phần Dream và Air trong khi phần Summer chỉ đề cập ngắn gọn trong suốt bộ truyện. Nhân vật trọng tâm trong cốt truyện manga là Misuzu, trong khi Kano và Minagi chỉ đóng vai trò là những nhân vật phụ phục vụ cho câu chuyện của nhân vật chính. Tuy nhiên, câu chuyện của Minagi cũng được giải thích trong phụ chương cuối ở tập hai. Loạt manga thứ hai cũng chứa những mẫu truyện về KanonAIR do Sagiri Suda minh họa mang tên , được Enterbrain cho ra mắt vào tháng 8 năm 2003.

Ngoài ra còn có năm bộ truyện tập hợp khác được sản xuất và minh họa bởi nhiều công ty và họa sĩ khác nhau. Tập truyện tập hợp đầu tiên xuất bản bởi Ichijinsha mang nhãn hiệu DNA Media Comics dưới tựa đề ra mắt ngày 25 tháng 1 năm 2001. Những quyển còn lại trong bộ tiếp tục được phát hành đều đặn đến ngày 25 tháng 12 năm 2001 với tập thứ bảy. Bộ truyện tập hợp thứ hai là chỉ có một tập phát hành bởi Softgarage vào ngày 20 tháng 12 năm 2002. Ngày 17 tháng 4 năm 2004, Ohzora cho ra mắt một tuyển tập dựa trên KanonAIR với nhan đề . Ohzora cũng phát hành 3 bộ tổng hợp khác mang tiêu đề AIR, tập cuối giới thiệu ngày 24 tháng 3 năm 2005 được đóng thành gói chung với hai tập trước. Mỗi bộ truyện tập hợp này được viết và vẽ bởi rất nhiều người khác nhau, trung bình có khoảng 20 người tham gia thực hiện mỗi tập.

Hai tuyển tập sách minh họa về các nhân vật của AIR do Higurashi viết được tập hợp lại và xuất bản bởi Jive vào tháng 9 và tháng 12 năm 2004 mang tên dựa theo bản gốc visual novel của Key.

Các tập sách

Dưới đây là dach sách các ấn phẩm manga AIR cùng sách xuất bản tại Nhật:

Các drama CD

Có chín drama CD dựa trên AIR được phát hành bởi Lantis. Ba CD đầu tập trung mô tả câu chuyện của mỗi nhân vật nữ chính trong từng đĩa, bìa mỗi đĩa có in hình đại diện cho từng cô gái; chúng ra mắt ngày 24 tháng 8 năm 2005.

Phim

Một bộ phim hoạt hình AIR do Dezaki Osamu làm đạo diễn đã công chiếu ở các rạp chiếu phim Nhật Bản vào ngày 5 tháng 2 năm 2005 với độ dài 91 phút. Phim được sản xuất bởi Toei Animation, có nội dung tóm tắt toàn bộ cốt truyện chính của AIR, tập trung vào nhân vật nữ chính là Kamio Misuzu. Kunisaki Yukito đến thị trấn Kami để kiếm tiền vào đúng dịp Lễ hội Mùa hè và gặp Misuzu vào ngày đầu tiên anh ở lại đó. Họ sớm trở thành bạn thân và câu chuyện kéo dài một ngàn năm dần hé mở. Bộ phim sau đó bán dưới dạng DVD và phát hành ra ba bộ là Bộ Tổng Hợp, Bộ Đặc Biệt và Bộ Thường vào ngày 5 tháng 8 năm 2005. DVD của AIR cũng phát hành ở thị trường Bắc Mỹ bởi ADV Films vào ngày 11 tháng 12 năm 2007. Funimation Entertainment tiếp tục phát hành phim vào tháng 7 năm 2008 sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng bản quyền với ADV.

Anime

Vào ngày 17 tháng 11 năm 2004, một DVD mẫu mang tên được ra mắt có chứa các đoạn phỏng vấn với nhóm làm phim, video âm nhạc chủ đề mở đầu và kết thúc không có phụ đề cùng một đoạn phim quảng cáo một vài cảnh đầu tiên của chính anime này; nó là một phiên bản DVD số lượng giới hạn, chỉ có 20.000 bản được sản xuất. Loạt anime truyền hình sản xuất bởi Kyoto Animation, do Ishihara Tatsuya làm đạo diễn với sự biên kịch lại từ visual novel của Shimo Fumihiko, khâu thiết kế nhân vật do Aratani Tomoe thực hiện dựa theo bản vẽ gốc của Hinoue Itaru. 13 tập phim đã phát sóng ở Nhật trên kênh truyền hình cáp BS-i từ 6 tháng 1 đến 31 tháng 3 năm 2005. 12 tập phim đầu tiên có cốt truyện theo sát bản gốc của visual novel, tập phim cuối cùng tóm tắt lại câu chuyện của Misuzu. Anime cũng phân nội dung phim ra thành 3 phần như trong trò chơi: Dream (tập 1 đến tập 7), Summer (hai tập 8 và 9) và Air (tập 10 đến tập 12), cùng một tập phim tóm tắt (tập 13) liền theo. Sau khi loạt anime chính kết thúc khoảng năm tháng, hai tập phim có nội dung của phần Summer mang tên AIR in Summer tiếp tục lên sóng vào ngày 28 tháng 8 và ngày 4 tháng 9 năm 2005 trên kênh BS-i; nhóm sản xuất phim cũng chính là những nhân viên thực hiện bộ anime trước.

Một DVD khác ra mắt ngày 31 tháng 3 năm 2005 lấy tên "AIR Memories" bao gồm các đoạn quảng cáo cho loạt phim, những bình luận của nhóm sản xuất cùng ca khúc cuối phim không phụ đề trong tập 12 và 13, với độ dài tổng cộng 92 phút. Các tập phim được phát hành thành sáu DVD Region 2 từ 6 tháng 4 đến 7 tháng 9 năm 2005 bởi Pony Canyon dưới dạng bản giới hạn và bản thường với hai tập phim trong mỗi bộ. Phiên bản mới của bộ hộp đĩa Blu-ray phát hành ngày 28 tháng 11 năm 2008 tại Nhật.

Ngày 27 tháng 4 năm 2007, nhà đồng sáng lập và điều hành ADV Films, ông Matt Greenfield, đã công bố việc mua lại bản quyền cả loạt anime truyền hình lẫn phim AIR trên một bảng tin tại Anime Matsuri, hội nghị anime của South Texas. 12 tập phim của loạt anime chính cùng hai tập AIR in Summer được cấp phép và phân phối tại Bắc Mỹ bởi ADV Films. Những tập phim này được phát hành thành 4 DVD biên dịch từ 14 tháng 8 đến 27 tháng 11 năm 2007. Bộ DVD thứ hai được bán cả hai phiên bản, điểm khác biệt duy nhất của bộ này với tất cả các bộ còn lại là nó đựng vừa cả bốn đĩa DVD bên trong. Trong tháng 7 năm 2008, bản quyền của loạt anime và phim được chuyển nhượng sang cho Funimation Entertainment, công ty này vẫn tiếp tục sản xuất chúng ở thị trường Bắc Mỹ với bản lồng tiếng Anh, nhưng không chứa tập phim tóm tắt.

Có hai bài hát chủ đề cho mỗi tập phim: một để mở đầu và một để kết thúc. Ca khúc mở đầu mang tên "Tori no Uta" và ca khúc kết thúc mang tên "Farewell song"; cả hai bài hát này đều được trình bày bởi Lia và đều là hai bản nhạc chủ đề của visual novel gốc. Ngoài ra còn có một bài hát chèn thêm vào tập phim thứ 12 là "Aozora" cũng lấy từ visual novel do Lia thực hiện. Tất cả các nhạc phẩm còn lại (bao gồm cả nhạc có lời và nhạc nền) đều lấy từ nhạc của visual novel AIR trong các đĩa nhạc bao gồm Ornithopter, Natsukage / Nostalgia, AIR Original Soundtrack, Re-feelAIR Analog Collector's Edition.

Lồng tiếng

Dưới đây là danh sách seiyū lồng tiếng cho một số nhân vật quan trọng trong loạt anime AIR:

Âm nhạc

Visual novel AIR có ba bài hát chủ đề là: , ca khúc mở đầu; "Farewell song", ca khúc kết thúc; và , ca khúc chèn thêm. Mỗi bài hát được trình bày bởi Lia của nhóm I've Sound và phần lời viết bởi Maeda Jun. Có năm bản nhạc chủ đạo, hay nhạc nền, dành cho năm nhân vật bao gồm ba nhân vật nữ chính cùng Kanna và Michiru. Bài của Misuzu là ; bài của Kano là ; bài của Minagi là ; bài của Kanna là ; cuối cùng là bài của Michiru có tựa đề . Một album hòa tấu piano ra mắt trong tháng 12 năm 2003 mang tên Re-feel bao gồm năm ca khúc trong AIR và năm ca khúc trong Kanon Một đĩa CD giao hưởng lấy tên Shinwa e no Izanai phát hành chung với bộ DVD đặc biệt của bộ phim này vào ngày 5 tháng 8 năm 2005. Nhìn chung, âm nhạc trong AIR được nhiều người đón nhận, bản soundtrack gốc của visual novel đạt được doanh thu cao. Năm 2005, một nhạc phẩm ở Đài Loan đã được xác định là vi phạm bản quyền từ ca khúc chủ đề mở đầu của AIR.

Đón nhận và doanh số

Theo một bảng xếp hạng về doanh số các tựa bishōjo game thu được trên toàn Nhật Bản, phiên bản gốc trên PC của AIR dẫn đầu với vị trí số một. Hai tháng sau ngày phát hành, phiên bản này tụt xuống vị trí 42 và vẫn giữ nguyên như thế đến hết tháng 12 năm 2000. Phiên bản này còn xuất hiện trên bảng xếp hạng hai lần nữa: lần đầu trong khoảng từ cuối tháng 9 đến đầu tháng 10 năm 2001 ở hạng 26, và lần chót là vào hai tuần cuối tháng 5 năm 2002, xếp vị trí 43. Phiên bản chính thức trên PC xếp hạng lần đầu ở vị trí thứ 13, và trong hai lần xếp hạng sau đó nó lần lượt chiếm vị trí 41 và 42. Bản mọi lứa tuổi trên PC ra mắt lần đầu ở vị trí thứ 7, và sau đó xuất hiện lần chót ở hạng 30. Bản AIR Standard Edition dẫn đầu bảng ngay trong lần xếp hạng đầu tiên. Bản này còn xếp hạng thêm hai lần nữa, và lần lượt đứng ở vị trí 34 và 28. AIR là trò chơi đạt được doanh số cao nhất năm 2000 với 102.080 bản được bán ra, hơn đến 25.000 bản so với Inagawa de Ikō! ở vị trí thứ 2. Phiên bản chơi trên hệ máy Dreamcast bán được 42.445 bản ngay trong tuần đầu tiên phát hành, và là trò chơi console bán chạy thứ tư trong tuần đó ở Nhật Bản; nó có tổng cộng 50.406 bản được bán thành công, xếp hạng 53 trong danh sách những game Dreamcast bán chạy nhất Nhật Bản năm 2007.

Hình cách điệu nhân vật Kamio Misuzu trên một chiếc [[Itasha tại buổi triển lãm Fancy Frontier ACG lần thứ 14 ở Đài Bắc, Đài Loan]] "AIR đã làm chấn động cả thế giới bishōjo game", đó là một lời bình luận về phiên bản Dreamcast của MobyGames. AIR được đánh giá là một siêu phẩm, giống như hai chị em của nó là KanonCLANNAD, nhờ vào một cốt truyện chi tiết gây nên sự hứng thú cho người chơi, đồng thời có giá trị chơi lại cao. Vào tháng 10 năm 2007, Dengeki G's Magazine tổ chức một cuộc thăm dò ý kiến về tốp 50 bishōjo game từng phát hành, AIR xếp thứ 8 với 43 phiếu bầu trong tổng số 249 tựa game được đề cử. Một năm sau, vào tháng 9 năm 2008, Dengeki Online tổ chức đợt khảo sát kéo dài một tháng dành cho người chơi game với câu hỏi: "Trò chơi nào đã khiến bạn cảm động đến bật khóc?". Kết quả, AIR xếp thứ 7 trong tốp 10 game, ba trò chơi khác của Key là CLANNAD, KanonLittle Busters! lần lượt chiếm các vị trí 2, 5 và 10.

Chuyển thể anime của AIR nhận được nhiều ý kiến trái chiều nhau, cả phê bình lẫn khen ngợi. Một nhà phê bình đánh giá nó đạt 8.5/10, tuy nhiên nhìn chung «vẫn có một cái gì đó khiến nó bị thua kém Kanon và CLANNAD». Nhà phê bình Theron Martin của Anime News Network đánh giá bộ DVD thứ nhất đạt loại 'B', ông cho rằng nội dung anime quá tập trung vào một nhân vật (Misuzu) và ít để lại ấn tượng cho người xem về hai nhân vật nữ chính còn lại. Tuy nhiên, Martin đánh giá khá cao phần hình ảnh và âm nhạc của phim, ông nhận xét: «Cho dù bộ anime này có thiếu bất cứ thứ gì để diễn tả cốt truyện thì chắc chắn không phải là chất lượng hình ảnh»«Phần âm nhạc thể hiện tốt vai trò của nó nhất khi trở nên êm ái, có rất nhiều giai điệu bằng piano làm cho người nghe luôn thấy dễ chịu». Ông khen ngợi nó là «Một trong những anime buồn nhất từng được sản xuất», bắt đầu bằng câu «Sự đau buồn sẽ gậm nhấm bạn, chậm nhưng chắc, đến một lúc nào đó bạn sẽ phải bỏ cuộc và bật khóc hay vung đôi tay của bạn lên trong sự thất vọng, tự hỏi tại sao nó lại xảy ra như thế rồi tắt nó đi trong sự phiền não».

Cũng như Kanon, phiên bản phim do Toei Animation thực hiện bị đánh giá thấp hơn so với Kyoto Animation. Một trích đoạn ngắn nhận xét của Chris Beveridge:

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Air Berlin PLC & Co. Luftverkehrs KG** (FWB: AB1), được gắn nhãn là **airberlin** hoặc **airberlin.com** là một hãng hàng không của Đức. Vào thời kỳ đỉnh cao, đây là hãng hàng không lớn thứ
**Air France** (; formally _Société Air France, S.A._), cách điệu thành **AIRFRANCE**, là hãng hàng không quốc gia của Pháp, đặt trụ sở tại Tremblay-en-France, phía bắc thủ đô Paris. Air France là một công
**Air New Zealand Limited** là hãng hàng không quốc gia của New Zealand có trụ sở tại Auckland. Hãng khai thác các dịch vụ trở khách tới 27 điểm trong nước và 26 điểm quốc
là một visual novel do hãng phần mềm Key phát triển, công ty này cũng cho ra đời hai tác phẩm nổi tiếng khác là _Kanon_ và _CLANNAD_. Lúc đầu nó là một trò chơi
**Air Canada** là hãng hàng không lớn nhất và cũng là hãng hàng không quốc gia của Canada. Hãng này được thành lập năm 1937 và có trụ sở ở Montréal, Québec. Air Canada cung
phải|Hộp [[đĩa Blu-ray anime _Air_ Vùng A do Pony Canyon phát hành.]] _Anime AIR_ là một bộ anime dựa trên tiểu thuyết tương tác cùng tên của hãng visual novel Key. Các tập phim sản
**Chuyến bay 610 của Lion Air (JT610/LNI610)** là chuyến bay chở khách nội địa thường lệ do Lion Air khai thác từ sân bay quốc tế Soekarno–Hatta ở Jakarta đến sân bay Depati Amir ở
**Chuyến bay 447 của Air France (AF447/AFR447)** là một chuyến bay vận chuyển khách quốc tế xuất phát từ Sân bay quốc tế Rio de Janeiro-Galeão ở thành phố Rio de Janeiro, Brasil đến Sân
nhỏ|phải|Canadair Regional Jet [[CRJ-100ER.]] nhỏ|phải|[[Canadair Regional Jet CRJ-100 sắp đáp xuống.]] **Brit Air** (mã IATA = **DB**, mã ICAO = **BZH**) là hãng hàng không của Pháp, trụ sở ở Morlaix, Brittany. Hãng có các
_AIR_ là tiểu thuyết ảo do Key phát triển và Visual Art's phát hành năm 2000. ## Soundtracks ### Visual novel #### _Ornithopter_ **_Ornithopter_** #### Natsukage / Nostalgia "**Natsukage / Nostalgia**" #### _Air Original Soundtrack_
**Chuyến bay 812 của Air India Express** là một chuyến bay dân sự quốc tế của hãng hàng không Air India. Chuyến bay này xuất phát từ Sân bay quốc tế Dubai ở Dubai và
left|thumb|N13067, DC-10 tham gia vào chuỗi vụ tai nạn, chụp ảnh năm 1996 **Chuyến bay 4590 của Air France** là một chuyến bay có lịch trình từ Sân bay quốc tế Charles de Gaulle gần
**Chuyến bay 904 của Lion Air 904** (**JT 904**, **LNI 904**) là một chuyến bay chở khách trong nước theo lịch trình trên máy bay PK-LKS, một chiếc Boeing 737-8GP vận hành bởi Lion Air
**Chuyến bay 296Q của Air France** là chuyến bay bằng chiếc Airbus A320-111 mới do Air France khai thác. Vào ngày 26 tháng 6 năm 1988, nó bị rơi trong khi vượt qua sân bay
nhỏ|Delta Air Lines building **Delta Air Lines, Inc.** (tiếng Anh của "Hãng hàng không Delta"; ) là một hãng hàng không Hoa Kỳ có trụ sở ở thành phố Atlanta, Georgia. Delta cung cấp các
**Chuyến bay 277 của Iran Air** là chuyến bay theo lịch trình của Iran Air từ Sân bay quốc tế Mehrabad, Tehran đến Sân bay Urmia, Iran. Vào ngày 9 tháng 1 năm 2011, chiếc
**_Air_** là bộ phim Nhật Bản năm 2005 do Dezaki Osamu đạo diễn và Nakamura Makoto viết kịch bản dựa trên visual novel cùng tên của Key. Ban đầu, bộ phim được dự kiến phát
**Chuyến bay 191 của Delta Air Lines** là một chuyến bay thường lệ của hãng Delta Air Lines từ Fort Lauderdale, Florida, đến Los Angeles, qua Dallas bị rơi vào ngày 2 tháng 8 năm
nhỏ|265x265px|**[[USS Vincennes|USS Vincennes (CG-49)**]] **Chuyến bay 655 của Iran Air** là chuyến bay chở khách của Iran Air từ Tehran đến Dubai. Vào ngày 3/7/1988, khi chiếc máy bay đang bay trên vịnh Ba Tư
**Vụ rơi máy bay tại Reno Air Races** là một tai nạn máy bay đua rơi vào đám đông khản giả tại một cuộc đua máy bay tại Nevada, Hoa Kỳ lúc 16h30 (giờ địa
Vào ngày 4 tháng 3 năm 1966, **Chuyến bay 402 (CP402) của Canadian Pacific Air Lines**, đã húc vào đèn tiếp cận và một bức tường trong một nỗ lực hạ cánh ban đêm trong
**_Nike Air Max_** là một dòng sản phẩm giày lần đầu tiên được phát hành bởi công ty Nike, Inc vào năm 1987. Chiếc giày đầu tiên được thiết kế bởi Tinker Hatfield một người
**Adobe AIR** (trước đây là **Adobe Integration Runtime**) là một hệ thống runtime đa nền tảng được Adobe Systems phát triển để xây dựng các ứng dụng máy tính để bàn và ứng dụng di
thumb|Trụ sở chính của EVA Air ở Đài Bắc. **EVA Air** (tiếng Hoa:長榮航空 _Chángróng Hángkōng_, Hán-Việt: Trường Vinh Hàng không) là một hãng hàng không Đài Loan có trụ sở tại Sân bay quốc tế
_Bài này nói về Series King Air 90 và 100. Về các Series 200 và 300 King Air, xem Bài Beechcraft Super King Air._ Dòng **Beechcraft King Air** là một phần trong loạt máy bay
**Air Transat** là một hãng hàng không của Canada có trụ sở tại Montreal, Quebec. Được thành lập vào năm 1986, đây là hãng hàng không lớn thứ ba của đất nước, khai thác các
**Korean Air Co., Ltd.** (), hoạt động với tên gọi **Korean Air** (Korean Air Lines (KAL) trước năm 1984; () là hãng hàng không quốc gia của Hàn Quốc dựa trên quy mô đội bay,
**Air Koryo** (), tên giao dịch tiếng Anh là **Air Koryo Korean Airways**, viết tắt là **Air Koryo**, (mã IATA = **JS**, mã ICAO = **KOR**) là hãng hàng không quốc gia và là hãng
**Air Astana** () là hãng vận chuyển của Cộng hòa Kazakhstan, có trụ sở tại Almaty. Hãng khai thác các dịch vụ theo lịch trình, trong nước và quốc tế trên 64 tuyến từ trung
**Air Jordan** là một dòng giày bóng rổ được sản xuất bởi Nike, Inc. Trang phục và phụ kiện có liên quan được bán trên thị trường dưới tên **Jordan Brand**. Đôi giày Air Jordan
**Swiss International Air Lines AG** (thường gọi là: _Swiss_; tạm dịch: _Hãng hàng không Quốc tế Thụy Sĩ_) là hãng hàng không lớn nhất của Thụy Sĩ khai thác đường bay từ châu Âu tới
Son Kem Black Rouge Air Fit Velvet TintHàn QuốcSon Black Rouge Air Fit Velvet Tint gây ấn tượng với tông màu đỏ chủ đạo, thân son làm bằng nhựa nhám, vuông vức và chắc tay
Son Kem Black Rouge Air Fit Velvet TintHàn QuốcSon Black Rouge Air Fit Velvet Tint gây ấn tượng với tông màu đỏ chủ đạo, thân son làm bằng nhựa nhám, vuông vức và chắc tay
nhỏ|Hiệu Kỳ **Air Vietnam**, hay **Hãng Hàng không Việt Nam**, mã IATA là VN, mã ICAO là AVN, là hãng hàng không thương mại duy nhất của Quốc gia Việt Nam và sau đó là
Máy bay A321 của CAA tại Đà Nẵng nhỏ|477x477px **Cambodia Angkor Air** () là hãng hàng không quốc gia của Cambodia, có trụ sở chính và trung tâm hoạt động chính tại Phnom Penh. Khẩu
Thiết kế của Giày Nike Air Force 1 Trắng được đánh giá là một trong những mẫu sneaker đình đám nhất và điển hình nhất trong danh mục những đôi giày thể thao thời trang
**Sriwijaya Air** là một hãng hàng không Indonesia có trụ sở tại Jakarta với trụ sở chính đặt tại sân bay quốc tế Soekarno–Hatta ở Tangerang, Banten. Sriwijaya Air là hãng hàng không lớn thứ
thế=|nhỏ|380x280px|Một chiếc A321-200 với màu sơn vinh dự được làm chiếc máy bay thứ 9000 được xuất xưởng bởi [[Airbus.]] **Công ty Cổ phần Hàng không Vietjet** (tiếng Anh: _Vietjet Aviation Joint Stock Company_), cũng
**Air Tahiti Nui** là hãng hàng không chính trên đảo Tahiti, Polynésie thuộc Pháp. Hiện nay, hãng có trụ sở công ty chính tại _Immuble Dexter_ tại Papeete, Tahiti. Hiện tại, Air Tahiti Nui đang
**iPad Air 2** là máy tính bảng iPad Air thế hệ thứ hai được Apple Inc. thiết kế, phát triển và đưa ra thị trường. Nó được công bố vào ngày 16 tháng 10 năm
**Air Itam** (cũng được viết là Ayer Itam) là một vùng ngoại ô của George Town ở Penang, Malaysia. Nằm trong các thung lũng trung tâm của đảo Penang, nó nằm cách trung tâm thành
MÔ TẢ SẢN PHẨMMỗi mùa đi qua, thương hiệu Black Rouge luôn biết chiều ý phái làm đẹp khi tung ra nhiều phiên bản của dòng Air Fit Velvet Tint cùng nhiều chủ đề thú
Bảng Phấn Mắt, Má Clio Prism Air Eye Palette( N02) - Pink Addict (tone hồng ngọt ngào)Xuất xứ: Hàn QuốcThương hiệu: ClioBảng phấn mắt là một trong những vật dụng không thể thiếu của các
MÔ TẢ SẢN PHẨMPhấn phủ - Diorskin Nude Air Powder đứng đầu các bảng xếp hạng của những website đánh giá mỹ phẩm uy tín thế giới. Điểm luôn đạt /5 sao.Thiết kế cực kì
MÔ TẢ SẢN PHẨMMỗi mùa đi qua, thương hiệu Black Rouge luôn biết chiều ý phái làm đẹp khi tung ra nhiều phiên bản của dòng Air Fit Velvet Tint cùng nhiều chủ đề thú
MÔ TẢ SẢN PHẨMMỗi mùa đi qua, thương hiệu Black Rouge luôn biết chiều ý phái làm đẹp khi tung ra nhiều phiên bản của dòng Air Fit Velvet Tint cùng nhiều chủ đề thú
Giày af1,air force 1 full trắng bản trung hang 11 siêu vip đủ sizeHỆ THỐNG CỬA HÀNG CỦA CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ TÂN TRUNG MÔ TẢ SẢN PHẨM Giày af1,air force
Giày af1,air force 1 full trắng bản trung hang 11 siêu vip đủ sizeHỆ THỐNG CỬA HÀNG CỦA CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ TÂN TRUNG MÔ TẢ SẢN PHẨM Giày af1,air force
MÔ TẢ SẢN PHẨMMỗi mùa đi qua, thương hiệu Black Rouge luôn biết chiều ý phái làm đẹp khi tung ra nhiều phiên bản của dòng Air Fit Velvet Tint cùng nhiều chủ đề thú
Giày af1,air force 1 full trắng bản trung hang 11 siêu vip đủ sizeHỆ THỐNG CỬA HÀNG CỦA CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ TÂN TRUNG MÔ TẢ SẢN PHẨM Giày af1,air force