✨2K22 Tunguska

2K22 Tunguska

2K22 Tunguska (; ) là một Phương tiện chiến đấu bọc thép thuộc loại vũ khí phòng không tự hành bằng bánh xích. Với hệ thống vũ khí gồm tên lửa và pháo phòng không, nó được thiết kế nhằm mục đích tiêu diệt máy bay chiến đấu bay thấp, trực thăng và tên lửa hành trình để bảo vệ đội hình bộ binh và xe tăng cả ban ngày và ban đêm trong mọi điều kiện thời tiết. Khối NATO đặt cho nó tên gọi là SA-19 "Grison" theo hệ thống ký hiệu vũ khí của họ.

Lịch sử phát triển

Từ ngày 8 tháng 9-1970, hệ thống vũ khí này được phát triển tại Phòng thiết kế công cụ KBP ở thành phố Tula, Nga nhằm đáp ứng yêu cầu của Bộ Quốc phòng Xô Viết. Công việc phát triển nằm dưới sự điều hành của Tổng công trình sư A.G. Shipunov, được bắt đầu trên một hệ thống pháo phòng không 30 mm nhằm thay thế cho pháo phòng không tự hành 23 mm ZSU-23-4. Các nghiên cứu đã tiến hành chứng minh rằng pháo 30 mm chỉ cần số lượng đạn ít hơn từ 2 đến 3 lần là có thể tiêu diệt được mục tiêu so với pháo 23 mm của ZSU-23-4. Các thử nghiệm cũng chỉ ra khả năng có thể bắn hạ một chiếc MiG-17 đang bay với vận tốc 300 m/s, với cùng một lượng đạn, pháo 30 mm sẽ cho kết quả xác suất tiêu diệt mục tiêu cao hơn 1,5 lần so với pháo 23 mm. Tầm cao của đạn để tiêu diệt mục tiêu cũng tăng từ 2.000 lên đến 4.000 m và hiệu quả tăng lên khi tiêu diệt các mục tiêu bọc giáp mỏng hoạt động trên mặt đất cũng được thử nghiệm này xác định.

Những yêu cầu ban đầu đặt ra cho hệ thống này đã đạt được như hiệu quả về tầm bắn, độ cao và hiệu quả chiến đấu đều tăng gấp 2 lần so với ZSU-23-4. Ngoài ra, hệ thống có thời gian phản ứng dưới 10 s.

Tuy nhiên quá trình phát triển đã chậm lại vào khoảng thời gian 1975-1977 sau khi hệ thống tên lửa phòng không tự hành 9K33 Osa được giới thiệu. Hệ thống Osa dường như đã đáp ứng được cùng yêu cầu nhưng với hiệu suất bắn của tên lửa lớn hơn. Sau khi một số cuộc tranh luận lớn nổ ra, người ta nhận thấy một hệ thống dựa hoàn toàn vào tên lửa sẽ không thể có hiệu quả khi tiêu diệt các mục tiêu tầm thấp và bay chậm, có đường bay phức tạp như trực thăng tấn công ở cự ly gần mà không có cảnh báo như đã được chứng minh thành công trong chiến tranh Ả rập-Israel tháng 10 năm 1973. Khi so sánh thời gian phản ứng của hệ thống pháo trong khoảng 8-10 s với thời gian phản ứng của hệ thống dựa vào tên lửa xấp xỉ 30 s, người ta quyết định cho dự án phát triển được tiếp tục nối lại.

Dòng Tunguska cho đến gần đây là một hệ thống vũ khí phòng không duy nhất và có sức cạnh tranh cao, mặc dù đến năm 2007, hệ thống tên lửa và pháo phòng không Pantsir đã được sản xuất tại KBP. Là hậu duệ của Tunguska, hệ thống Pantsir có hiệu suất mọi mặt lớn hơn so với Tunguska.

Miêu tả

Hệ thống được gọi là 2K22 theo chỉ số GRAU,, dù tên gọi của quân đội là 9K22 cũng hợp lệ. Một đội hình hoàn chỉnh cấp tiểu đoàn bao gồm 6 xe chiến đấu 2S6 trang bị 8 tên lửa đất đối không 9M311 "Treugol'nik" (tam giác) và 2 pháo 2A38 30 mm cho mỗi xe. Ngoài ra còn kèm theo đến 3 xe tải hậu cần 2F77. 9K22 cũng kết hợp với một loạt các phương tiện hỗ trợ khác bao gồm xe bảo trì và sửa chữa 2F55-1, 1R10-1 và 2V110-1, xe kiểm tra 9V921 và xe sửa chữa MTO-AGZ. Những phương tiện trên cung cấp khả năng bảo trì cho một tiểu đoàn 9K22 trên chiến trường cũng như quá trình đại tu theo lịch trình.

nhỏ|trái|Tunguska tại Cuộc duyệt binh mừng chiến thắng Moskva 2008 Xe chiến đầu 2S6 sử dụng khung gầm GM-352 và sau đó là GM-352M phát triển và sản xuất tại Nhà máy máy kéo Minsk (MTZ), khung gầm xe có 6 bánh xích mỗi bên với hệ thống treo thủy khí ở mỗi bên, một bánh xích chủ động ở phía sau và 3 trục lăn hồi chuyển. Khung gầm xe có khả năng lội qua chỗ nước sâu 0,8 m, leo dốc lên tới 60% và dốc xuống 30%. GM-352 có thể băng qua một chướng ngại vật cao 1 mét và hào rộng 2 m. Nó cũng trang bị một hệ thống NBC vào trong khung gầm, một hệ thống cài số tự động và khả năng cảm biến khởi động trên phiên bản Tunguska-M1 mới nhất, được trang bị trên khung gầm GM-5975 mới do MMZ phát triển và sản xuất. Cơ cấu tổng thể của Tunguska được bố trí tương tự như ZSU-23-4 với một tháp trung tâm lớn (có tên gọi là 2A40) gồm vũ khí, cảm biến và chỗ cho 3 người: chỉ huy, xạ thủ và điều khiển radar. Lái xe ngồi ở phía trước bên trái thân xe, với một thiết bị phát điện hỗ trợ khởi động (APU) turbin khí ở bên phải lái xe và một động cơ ở phía sau thân xe.

Tunguska được trang bị một radar parabol bắt mục tiêu hoạt động ở dải sóng E, đặt ở phía sau tháp pháo. Khi kết hợp với radar theo dõi đơn xung dải sóng J đặt ở phía trước tháp pháo sẽ tạo nên hệ thống radar 1RL144 (NATO:Hot Shot). Radar sử dụng hệ thống cơ khí để quét và bắt mục tiêu trang bị cho Tunguska-M1 có thể đạt được góc nhìn lên tới 360 độ, tầm phát hiện mục tiêu khoảng 38 km và bắt được mục tiêu bay thấp tới 15 m, radar bắt mục tiêu có thể xếp gọn lại khi không hoạt động. Một hệ thống xác định bạn thù (IFF) hoạt động trong dải sóng C/D cũng được trang bị và có tên gọi là 1RL138. Hệ thống Tunguska có thể vừa bắn bằng pháo 30 mm vừa di chuyển. Khi bắn tên lửa, nó phải đứng yên vì tốc độ tối đa của mục tiêu có thể lên tới 500 m/s.

Một tiểu đoàn gồm 6 chiếc Tunguska có thể tự động nhận được thông tin điều khiển hỏa lực thông qua kênh vô tuyến. Điều này cho phép điều khiển các tổ chiến đấu riêng lẻ có thể tiêu diệt các mục tiêu khác nhau sau khi nhận lệnh từ Sở chỉ huy cấp trên hay Sở chỉ huy tiểu đoàn (PPRU). Thông tin về mục tiêu có thể nhận được từ hệ thống kiểm soát và cảnh báo sớm trên không (AWACS), từ radar cảnh báo sớm hay bằng chính thiết bị radar của PPRU. Các loạt xạ kích thường bắn ra từ 83 đến 250 viên tùy thuộc vào loại mục tiêu, với tầm bắn từ 0,2 đến 4 km và độ cao là 4 km. Đạn phá giáp (HE-T) và đạn phá mảnh (HE-I) được sử dụng và được trang bị với một ngòi chạm nổ và định thời gian A-670, trong đó bao gồm một cơ chế tự hủy và ngòi nổ lặp lại. Tầng thứ hai gồm động cơ với 4 cánh cố định, và 4 cánh điều khiển mặt để lái tên lửa. Toàn bộ tên lửa có chiều dài khoảng 2,56 m và trọng lượng là 57 kg.

    • 12 chiếc 2K22M1 đặt mua vào năm 2005
    • 35 chiếc đặt mua vào năm 1995 (do Liên Xô chuyển giao)."/>*
  • Trang bị cho hệ thống phòng thủ tầm gần Palma-SU trên các tàu hộ vệ Gepard 3.9.

Các hệ thống có tính năng tương đương

  • Flugabwehrkanonenpanzer Gepard
  • Type 95 SPAAA
  • M6 Linebacker
  • Pantsir-S1
  • Pháo phòng không tự hành Type 87
  • PZA Loara
  • ZSU-57-2
  • ZSU-37
  • ZSU-23-4 Shilka
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**2K22 Tunguska** (; ) là một Phương tiện chiến đấu bọc thép thuộc loại vũ khí phòng không tự hành bằng bánh xích. Với hệ thống vũ khí gồm tên lửa và pháo phòng không,
Tên ký hiệu của NATO cho series **SA** tên lửa đất đối không, với các thiết kết của Liên Xô: * SA-1 "Guild" (S-25 _Berkut_) * SA-2 "Guideline" (V-75 _Dvina_/_Volkhov_/_Desna_) * SA-3 "Goa" (S-125 _Nyeva_)
**Hệ thống tên lửa Tor** (; ) là một hệ thống tên lửa đất đối không tầm thấp, được thiết kế để tiêu diệt máy bay, trực thăng, tên lửa hành trình, phương tiện bay
phải|nhỏ|Xe tăng [[Xe tăng T-34|T-34 tiến ra mặt trận]] Đây là danh sách các loại xe tăng và các phương tiện chiến đấu bọc thép khác của đế quốc Nga , Liên Xô , Liên
**2A42** là định danh của dòng pháo tự động cỡ nòng 30mm được phát triển và chế tạo chủ yếu bởi Liên Xô, sau này là Nga. Nó là vũ khí chính trên các phương
Pháo phòng không tự hành **_Flugabwehrkanonenpanzer Gepard_** là một tổ hợp pháo phòng không tự hành SPAAG của Lục quân Đức. Pháo được phát triển vào những năm 1960s và đã được nâng cấp nhiều